cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

05/2012/DS-GĐT: Đòi lại tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 396
  • 4

Đòi lại tài sản

15-02-2012

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12-9-2006, đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện đề ngày 24-11-2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Dương Chiêu Vy, ông NĐ_Đoàn Văn Linh và người đại diện theo ủy quyền của ông NĐ_Linh, bà NĐ_Vy trình bày: Vào năm 1999, bà BĐ_Dương Chiêu Loan và ông LQ_Hoàng Sĩ Hân có nhờ vợ chồng bà NĐ_Vy, ông NĐ_Linh bảo lãnh cho chị LQ_Hoàng Bích Dương (con bà Liên, ông Hải) sang du học tại Úc. Mọi chi phí trong quá trình học tập, đi lại của chị LQ_Dương tại Úc, vợ chồng bà Liên đều mượn tiền của bà NĐ_Vy để chi. Bà NĐ_Vy đã chuyển tiền về cho vợ chồng bà Liên 04 đợt, với số tiền 45.000 đôla Ôxtrâylia (AUD), cộng cước phí 124,30 AUD, tổng cộng là 45.124,30 AUD,


04/2012/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 749
  • 10

Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà

15-02-2012

Ngày 06-4-2005, bà NĐ_Nan với bà BĐ_Huỳnh Chiêu Vy ký kết Hợp đồng nhận tiền bán nhà, theo đó bà BĐ_Vy đồng ý bán đứt cho bà NĐ_Nan căn nhà số 102 đường THĐ, phường 13, quận T, Thành phố HCM với giá là 3 000 000.000 đồng, bà NĐ_Nan đặt cọc cho bà BĐ_Vy 1.200.000.000 đồng. Hợp đồng nhận tiền cọc bán nhà ngày 06-4-2005 được hai bên ký kết trên cơ sở sự thanh lý 03 hợp động nhận tiền cọc bán nhà trước đó, cụ thể: Ngày 28-11-2003, bà BĐ_Vy với bà NĐ_Nan ký kết Hợp đồng nhận tiền cọc bán nhà (BL. 164) với nội dung: Bà NĐ_Nan đặt cọc cho bà BĐ_Vy số tiền 710.000.000 đồng để mua căn nhà 102-104 THĐ, phường 13, quận T, Thành phốHCM , nếu sau khi đặt cọc bà BĐ_Vy không bán hoặc bán căn nhà này cho người khác thì sẽ phải bồi thường cho bà NĐ_Nan 02 lần số tiền đã đặt cọc. Cùng ngày, bà BĐ_Vy đã lập giây mượn số tiền 710.000.000 đồng (BL.157).


111/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 319
  • 6

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

25-03-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 30/9/2008 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Rân trình bày: Ông có diện tích đất 750m2 tọa lạc tại ấp Xóm Đồng, xã TPT, huyện CC do con trai ông là anh BĐ_Nguyễn Văn Thông quản lý, sử dụng từ năm 1994. Năm 2001, ông viết giấy tay chuyển nhượng cho anh BĐ_Thông phần đất 324m2 (trong số 750m2 nêu trên) với giá 62 triệu đồng, phần đất còn lại 426m2 ông chỉ cho anh BĐ_Thông mượn. Năm 2007, anh BĐ_Thông làm hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi đó ông có giao kèo chỉ chuyển nhượng phần diện tích 324m2 đất mà ông đã ký giấy tay bán cho anh BĐ_Thông năm 2001 chứ không chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích đất mà anh BĐ_Thông đang sử dụng 750m2.


110/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 300
  • 4

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

25-03-2014

Ngày 08/12/2009, bà NĐ_Phạm Thị Bích Nga có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Sang vay số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng), hợp đồng có chứng thực của phòng công chứng, thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay là 3%. Vì tin tưởng nhau nên ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga và bà BĐ_Sang có lập hợp đồng hợp tác liên doanh (bà BĐ_Sang là chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Sanh) xây dựng chung cư 17 Củ Chi, phường VH, thành phố NT. Để hoàn thành hợp đồng này, từ ngày 15/12/2009 đến ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga đã chuyển cho bà BĐ_Sang tổng cộng số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Từ khi nhận được tiền, bà BĐ_Sang cố tình không thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng. Nay bà NĐ_Nga yêu cầu bà BĐ_Sang phải trả lại cho bà tổng số tiền đã nhận là 6.500.000.000đ (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật.


109/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1054
  • 32

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-03-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Phạm Thị Sang trình bày: Vào năm 2001 bà có bán cho ông BĐ_Sĩ 1.000m2 đất với số tiền 250.000.000 đồng. Sau đó ông BĐ_Sĩ giới thiệu ông Phan Văn Phương mua của bà thêm 1.000m2 đất cũng với số tiền 250.000.000 đồng. Phần đất của ông Phương mua nằm sát đường đi, lúc đó ông Phương có nói nếu ông có đi lối đi của bà thì ông đưa thêm 5.000.000 đồng, còn nếu không đi vào lối đi của bà thì ông không đưa số tiền trên. Một thời gian sau thì ông Phương bán phần đất trên lại cho ông BĐ_Sĩ, ông BĐ_Sĩ có xây nhà và trổ thêm cửa ra lối đi của bà thì bà không đồng ý nên vào năm 2003 bà có gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã TK nhờ giải quyết, ông BĐ_Sĩ trình bày chỉ mở lối thoát hiểm, không đi vào con đường này nên bà đã rút đơn. Sau đó phần đường đi chung này đã bị ông BĐ_Sĩ lấn chiếm và rào lại, vì vậy, bà tiếp tục làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã TK giải quyết nhưng không thành. Nay bà khởi kiện với yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Trần Sĩ phải trả lại con đường đi công cộng có diện tích 153,2m2.