cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

110/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 300
  • 4

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

25-03-2014

Ngày 08/12/2009, bà NĐ_Phạm Thị Bích Nga có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Sang vay số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng), hợp đồng có chứng thực của phòng công chứng, thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay là 3%. Vì tin tưởng nhau nên ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga và bà BĐ_Sang có lập hợp đồng hợp tác liên doanh (bà BĐ_Sang là chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Sanh) xây dựng chung cư 17 Củ Chi, phường VH, thành phố NT. Để hoàn thành hợp đồng này, từ ngày 15/12/2009 đến ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga đã chuyển cho bà BĐ_Sang tổng cộng số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Từ khi nhận được tiền, bà BĐ_Sang cố tình không thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng. Nay bà NĐ_Nga yêu cầu bà BĐ_Sang phải trả lại cho bà tổng số tiền đã nhận là 6.500.000.000đ (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật.


109/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1054
  • 32

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-03-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Phạm Thị Sang trình bày: Vào năm 2001 bà có bán cho ông BĐ_Sĩ 1.000m2 đất với số tiền 250.000.000 đồng. Sau đó ông BĐ_Sĩ giới thiệu ông Phan Văn Phương mua của bà thêm 1.000m2 đất cũng với số tiền 250.000.000 đồng. Phần đất của ông Phương mua nằm sát đường đi, lúc đó ông Phương có nói nếu ông có đi lối đi của bà thì ông đưa thêm 5.000.000 đồng, còn nếu không đi vào lối đi của bà thì ông không đưa số tiền trên. Một thời gian sau thì ông Phương bán phần đất trên lại cho ông BĐ_Sĩ, ông BĐ_Sĩ có xây nhà và trổ thêm cửa ra lối đi của bà thì bà không đồng ý nên vào năm 2003 bà có gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã TK nhờ giải quyết, ông BĐ_Sĩ trình bày chỉ mở lối thoát hiểm, không đi vào con đường này nên bà đã rút đơn. Sau đó phần đường đi chung này đã bị ông BĐ_Sĩ lấn chiếm và rào lại, vì vậy, bà tiếp tục làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã TK giải quyết nhưng không thành. Nay bà khởi kiện với yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Trần Sĩ phải trả lại con đường đi công cộng có diện tích 153,2m2.


106/2014/DS-GĐT: Ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 235
  • 5

Ly hôn

20-03-2014

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 24/8/2009 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Văn Xuân trình bày: Ông và bà BĐ_Hồ Thị Bích Linh chung sống với nhau từ năm 1975, không đăng ký kết hôn. Năm 1994, hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân. Quá trình chung sống, ông và bà BĐ_Linh có 06 người con chung, gồm: chị LQ_Lê Thị Bích Ngọc, sinh năm 1975; chị LQ_Lê Thị Bích Hà, sinh năm 1978; chị LQ_Lê Thị Loan, sinh năm 1981; anh LQ_Lê Văn Thức, sinh năm 1981; anh LQ_Lê Văn Phục, sinh năm 1984 và chị LQ_Lê Thị Ngọc Thích Kim Dung, sinh năm 1992.


67/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 992
  • 28

Tranh chấp thừa kế

28-02-2014

Tại Đơn khởi kiện ngày 13/3/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, bà NĐ_Ngô Thị Ba và ông NĐ_Ngô Văn Chiến trình bày: Cha mẹ các ông bà là cụ Ngô Văn Quýt (chết năm 1978) và cụ Hồ Thị Hiền (chết năm 2002) sinh được 4 người con là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, ông NĐ_Ngô Văn Chiến, bà NĐ_Ngô Thị Ba và bà BĐ_Ngô Thị Tiên. Khi còn sống, cụ Quýt, cụ Hiền tạo lập được tài sản là đất đai, nhà cửa và một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Sau giải phóng, hai cụ chia cho ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến mỗi người khoảng 3000 đến 4000m2 đất (ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các phần đất này). Đến khi hai cụ đều qua đời thỉ phần đất còn lại có diện tích 6.732m2 (đo thực tế 6.657m2 gồm cả đất thổ cư và đất lúa) do cụ Hiền đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 27/02/1997.


63/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 252
  • 7

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

27-02-2014

Ngày 29/01/2002, cụ NĐ_Lê Đình Hoà và cụ NĐ_Doãn Thị Liên có cho vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Ngọc Lâm, bà BĐ_Nguyễn Thị Giang vay 100 lượng vàng SJC với lời hứa sẽ đảm bảo hoàn trả trong vòng 1 tháng. Ông BĐ_Lâm, bà BĐ_Giang cũng hứa khi trả vàng sẽ biếu hai cụ 01 lượng vàng bằng 1% lãi; việc vay vàng có lập văn bản do bà BĐ_Giang viết. Sau đó, tháng nào hai cụ cũng ra cửa hàng vàng của bà BĐ_Giang đòi nợ nhưng bà BĐ_Giang toàn khất từ tháng này qua tháng khác với lý do chưa bán được nhà. Hàng tháng, bà BĐ_Giang đưa cho bà LQ_Loan (con gái của cụ NĐ_Hoà, cụ NĐ_Liên) tiền lãi 1% = 1 lượng vàng chứ không trả số vàng gốc 100 lượng. Từ tháng 02/2002 đến tháng 10/2004, bà BĐ_Giang đã trả được 33 tháng lãi, mỗi tháng 1 lượng bằng 33 lượng.