cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

64/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 390
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-02-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

NĐ_Nguyễn Ngọc Phú trình bày: Vào năm 1984 ông mua căn nhà số 167 PTG, phường 2 thành phố MT có chiều rộng là 3,5m, chiều dài 35m, tổng diện tích 367,4m2, diện tích sử dụng là 252m2, lúc này chỉ có cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Đến năm 1995, ông NĐ_Phú xin làm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có tranh chấp. Năm 2004 Ban tư pháp phường 2 có mời hai bên ra hòa giải, ông NĐ_Phú vì muốn tình chòm xóm được vui vẻ nên có thương lượng đồng ý đưa cho chị BĐ_Thư 10 lượng vàng 24K để chị BĐ_Thư xây 1 cái gác và chị BĐ_Thư sẽ trả lại phần phía sau cho ông NĐ_Phú, căn nhà này ông mua của bà Lưu Chấn Định xây dựng trước khi nhà sau của chị BĐ_Thư xây dựng. Nhưng chị BĐ_Thư không đồng ý sự thương lượng đó. Nay ông yêu cầu chị BĐ_Thư trả lại phần đất nhà sau với diện tích là 10,2m2 khi án có hiệu lực, không đền bù khoản tiền nào.


27/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 315
  • 12

Ly hôn

16-01-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Chị Tuyến, anh Hoan kết hôn năm 1992 và có một con chung là cháu Nguyễn Tiến Thành sinh ngày 08/6/1994, do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, nên ngày 20/8/2005 chị Tuyến có đơn xin ly hôn. Chị Tuyến, anh Hoan đồng ý ly hôn và giao con chung cho chị Tuyến nuôi dưỡng. Về tài sản: Chị Tuyến yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng là nhà mái bằng 35,2m2 trên 38,7m2 đất; chia đồ dùng sinh hoạt; chia 120.000.000 đồng là tiền anh Hoan thu nhập khi đi lao động tại Malaixia. Về nợ chung: Vợ chồng có nghĩa vụ trả nợ bà Mộc 1.000USD và 136USD lãi, nợ bà Sinh 6.200.000 đồng, nợ bà Lạc 20.000.000 đồng, nợ anh Tuyên 8.000.000 đồng.


58/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2259
  • 42

Tranh chấp thừa kế

19-12-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Sinh thời cha các nguyên đơn (ông Long) tạo lập được một số tài sản trong đó có các căn nhà và đất ở ST và khi còn sống thì ông Long đã chia cho các con của mẹ kế, còn lại căn nhà 3 tầng gắn liền diện tích đất thổ cư 53,2m2, tại thửa 412, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại số 28 đường HBT, khóm 1, phường 1, thành phố ST, hiện do cha là ông Long và mẹ kế là bà BĐ_Mai đứng tên chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Khi còn sống, sợ sau này anh em có sự tranh chấp tài sản, nên cha các nguyên đơn đã đến Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh ST lập bản di chúc vào ngày 16/01/2007, để lại toàn bộ tài sản của ông trong khối tài sản chung của vợ chồng là căn nhà và đất nói trên, cho hai người con là các nguyên đơn, mỗi người được hưởng phân nửa giá trị bằng nhau


66/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2182
  • 56

Tranh chấp thừa kế

22-09-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Ngôi nhà đất có giá trị 1.178.771.190đ toạ lạc tại 13/1 Hà Ra, khóm Vạn Lợi, phường VT, thành phố NT, tỉnh KH là di sản của vợ chồng ông Lê Phan (chết 1986), bà Phạm Thị Đó (chết 2008) để lại. Năm 1986 ông Lê Phan chết không để lại di chúc, kể từ đó đến trước khi bà NĐ_Mai khởi kiện, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan không có ai yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Phan theo pháp luật. Vì vậy, di sản của ông Phan vẫn còn đó, dù có còn hay hết thời hiệu khởi kiện cũng như chưa đủ điều kiện chia tài sản chung phần di sản của ông Phan như án sơ thẩm án sơ thẩm xác định thì bà Phạm Thị Đó cũng không có quyền định đoạt đối với phần di sản của ông Phan. Muốn định đoạt đối với phần di sản của ông Phan phải có sự thống nhất của các đồng thừa kế của ông Phan gồm bà Đó và những người con chung của ông bà. Do đó, việc bà Đó lập di chúc ngày 16/5/2003 định đoạt cả phần di sản của ông Phan là không hợp pháp.


34/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 497
  • 10

Tranh chấp thừa kế

31-03-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Về chia hiện vật, Tòa sơ thẩm xử đúng, tổng giá trị hiện vật ông NĐ_Bảo được nhận là: 3.545.715.000đ, tổng giá trị hiện vật ông BĐ_Tín được nhận là: 1.828.059.600đ, số liệu diện tích nhà đất và giá trị hiện vật này là chính xác. Cân đối giữa việc chia theo giá trị và chia theo hiện vật thì ông BĐ_Tín còn phải thanh toán cho ông NĐ_Bảo 299.745.648đ giá trị chênh lệch, ông NĐ_Bảo phải thanh toán cho vợ chồng ông BĐ_Tín, bà LQ_Diễm giá trị khu nhà trọ là 97.906.800đ, giá trị tường rào và trụ cổng là 20.000.000đ, tổng cộng là 117.906.800đ.