cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

32/2014/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 447
  • 18

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

05-03-2014
Tòa phúc thẩm TANDTC

Bà NĐ_Chông là người sống độc thân theo sự xác nhận của ủy ban nhân dân phưòng 2, quận Z vào ngày 15/12/1997; bà NĐ_Chông có quyền sử dụng phần đất có diện tích 10.002m2 toạ lạc tại xã TTT, huyện NB (nay là phường BT, quận Y) theo giấy chúng nhận quyền sử dụng đất số 180/QSDĐ ngày 18/01/1996 do ủy ban nhân dân huyện NB cấp. Trong năm 1996 - 1997, bà NĐ_Chông lập các hợp đồng để chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất này cho ông Bổn, ông Tài và người cuối cùng nhận chuyển nhượng là bà BĐ_Lĩnh.


103/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 4178
  • 131

Yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật

13-05-2008
Tòa phúc thẩm TANDTC

Nguyên đơn chị NĐ_Lê Thanh Hạ trình bày: Chị và anh BĐ_Hộ đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Các Sơn, huyện TG, tỉnh TH ngày 2-1-2001. Sau khi kết hôn anh BĐ_Hộ lại tiếp tục sang Cộng hòa Séc làm ăn, tháng 9-2001 vợ chồng sinh con, tháng 6-2002 anh BĐ_Hộ về nước đưa con sang trước. Tháng 12-2002 chị cũng làm thủ tục sang Cộng hòa Séc sống với chồng con. Sau đó chị phát hiện trước khi kết hôn với chị, anh BĐ_Hộ đã kết hôn với chị Nina Ploukova ở Cộng hòa Séc. Ngày 11-2-2002 anh BĐ_Hộ đã làm thủ tục ly hôn. Do bị anh BĐ_Hộ lừa dối nên vợ chồng mâu thuẫn, cuối năm 2005 chị đưa con về Việt Nam sống. Xét thấy tình cảm vợ chồng knông còn nên đề nghị hủy hôn nhân trái pháp luật hoặc giải quyết cho chị và anh BĐ_Hộ ly hôn.


193/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 198
  • 9

Tranh chấp quyền sử dụng đất

21-08-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo phía nguyên đơn trình bày: diện tích đất tranh chấp nằm trong diện tích 1047m2 thuộc thửa 60A, tờ bản đồ 72G, phường 11, thành phố ĐL do bà NĐ_Lê Thị Mão trực tiêp quản lý sử dụng và được Ủy ban nhân dân thành phố ĐL cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/8/1997 nay bà NĐ_Mão đã cho con là anh Nguyễn Danh Quý sử dụng. Năm 2000 BĐ_Chùa Phước Lộc xây dựng tháp chuông có thỏa thuận với anh Quý cho chùa sử dụng 1 phần đất có diện tích 15m2, chùa sẽ bồi thường tiền đất và hoa màu thỏa đáng. Sau đó Chùa không bồi thường nên xảy ra tranh chấp.


188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 350
  • 20

Yêu cầu chia thừa kế

17-08-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.


108/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 364
  • 10

Tranh chấp quyền sử dụng đất

22-05-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện ngày 8/3/2002 của ông Lê Văn Thanh (là bố của các nguyên đơn đã chết ngày 1/9/2004) và lời khai của ông Thanh cũng như các thừa kế của ông Thanh trình bày: Năm 1973 ông Thanh có mua một phần đất có diện tích 2.300m2 tại ấp AT A, xã MTA, thị xã BT, tỉnh BT của các đồng thừa kế cùng hàng với bà NĐ_Nguyễn Thị Quốc là vợ của ông Thanh nhượng lại. Trên phần đất này trước đây cha mẹ vợ ông Thanh có cho cụ Đặng Văn Chôm (là cha của ông BĐ_Đặng Văn Đoán) ở nhờ khoảng 200m2, khi ông Chôm chết, ông BĐ_Đoán tiếp tục ở và còn lấn thêm. Ông Thanh đã làm thủ tục đăng ký kê khai và được ủy ban nhân dân tỉnh BT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 1/9/1994 với tổng diện tích là 2.433m2 trong đó có phần diện tích 227.3m2 mà gia đình ông BĐ_Đoán đang sử dụng, ông Thanh đã chết nên các thừa kế của ông Thanh tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm vẫn giữ yêu cầu ông BĐ_Đoán phải trả lại cho các thừa kế phần đất mà ông BĐ_Đoán đang sử dụng.