cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

345/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1191
  • 24

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-09-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/8/2013, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn bà NĐ_Trương Thị Phương, ông NĐ_Lê Tuấn Lân, ông NĐ_Lê Anh Hải do bà Trương Thị Kim Oanh đại diện theo ủy quyền trình bày: Vào năm 2007 ông Lê Văn Thiêm (là chồng của bà NĐ_Trương Thị Phương) cùng các ông BĐ_Võ Văn Lương, ông Nguyễn Đức Huy, ông Huỳnh Minh Hiển hùn vốn để thành lập LQ_Công ty cổ phần Thuỷ Sản Ba Lan ( sau đây viết tắt là LQ_Công ty Ba Lan) tại tỉnh ĐT. Tổng số tiền ông Thiêm tham gia góp cổ phần là 15.000.000.000 đồng, chiếm tỷ lệ 33% vốn góp.


336/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 279
  • 3

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

24-09-2014
TAND cấp huyện

Do cần vốn làm ăn nên ngày 01/10/2013, bà BĐ_Phan Thị Thủy có hỏi vay của bà số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng và cùng ngày cả hai đã ra Phòng công chứng Đầm Sen (địa chỉ: 277 đường Minh Phụng, Phường 2, Quận T, Thành phố HCM) ký Hợp đồng vay tiền (theo Hợp đồng vay tiền số công chứng 00023891, quyển số 08, ngày 01/10/2013), thời hạn vay từ ngày 01/10/2013 đến ngày 24/12/2013, thỏa thuận lãi suất là 1,1%/tháng và ngay trong ngày ký hợp đồng, bà BĐ_Thủy đã nhận đủ số tiền 80.000.000 đồng. Nhưng từ khi nhận tiền, bà BĐ_Thủy chỉ trả cho bà được 1.000.000 (một triệu) đồng tiền lãi rồi ngưng luôn cho đến nay, mặc dù bà đã nhiều lần gọi điện thoại nhắc nhở, nhưng bà BĐ_Thủy vẫn không thực hiện.


194/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2357
  • 29

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

18-06-2015
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ghi ngày 16/12/2014; bản khai ngày 12/01/2015; biên bản hòa giải không thành vào các ngày 27/3/2015, 15/4/2015, 12/5/2015 thì nguyên đơn – bà NĐ_Tô Thị Thu Thanh trình bày: Gia đình bà và gia đình bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Dung – ông BĐ_Phạm Trọng Đinh là hàng xóm thân thiết với nhau. Trong khoảng thời gian từ ngày 05/8/2012 đến ngày 30/9/2013, bà có cho vợ chồng bà LQ_Dung – ông BĐ_Đinh vay nhiều lần tiền, mỗi lần hai bên đều có lập giấy vay tiền. Tuy nhiên, đến ngày 30/9/2013 thì hai bên tổng kết toàn bộ số nợ nên lập lại Hợp đồng mượn tiền với tổng số tiền vay là 3.000.000.000 (ba tỷ) đồng. Theo hợp đồng mượn tiền này, bà LQ_Dung – ông BĐ_Đinh cam kết đến ngày 30/5/2014 sẽ giao trả đủ số tiền vay 3.000.000.000 (ba tỷ) đồng và tiền lãi. Hợp đồng mượn tiền do chính tay bà LQ_Dung viết và ký tên trước mặt bà. Riêng ông BĐ_Đinh thì bà không chắc, vì lúc đó sau khi lập xong Hợp đồng mượn tiền và ký tên, bà LQ_Dung đã cầm Hợp đồng mượn tiền vào trong phòng cho ông BĐ_Đinh ký rồi sau đó đưa lại cho bà. Vì vậy, bà không trực tiếp nhìn thấy ông BĐ_Đinh ký tên và không có đủ cơ sở để khẳng định chữ ký, chữ viết trong bản hợp đồng là của ông BĐ_Phạm Trọng Đinh.


122/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 376
  • 4

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

14-05-2015
TAND cấp huyện

Bà NĐ_Hoàng Thị Rương và bà BĐ_Nguyễn Thị Chi gần nhà nhau nên bà NĐ_Rương đã tin tưởng cho bà BĐ_Chi vay tiền từ tháng 7/2010 đến khoảng tháng 5/2014, với ba hình thức vay là trả lãi hàng tháng lãi suất 5%/ 1 tháng, vay mượn góp hàng ngày và thông qua góp hụi. Khi cho vay không có viết giấy nợ. Bà BĐ_Chi đã không trả nợ nên Bà NĐ_Rương đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Chi trả lại cho bà NĐ_Rương số tiền là 2.215.000.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn xác định khi bà NĐ_Rương bị bệnh thì hai bên gút nợ là 1.840.000.000đồng (tính luôn tiền hụi), khi đó bà BĐ_Chi hứa trả tiền lãi là 3.700.000 đồng/ngày và trả tiền góp lại tiền hụi 2.600.000 đồng/ngày, nhưng bà BĐ_Chi không thực hiện đúng lời hứa, bà BĐ_Chi trả không đều và mỗi lần trả không đủ tiền như thỏa thuận, mỗi lần trả tiền bà BĐ_Chi đều viết giấy để lại. Nay bà NĐ_Rương chỉ kiện đòi bà BĐ_Chi 1.840.000.000 đồng, không tính lãi.


2056/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 568
  • 24

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-09-2016
TAND cấp huyện

Năm 2010 ông NĐ_Nguyễn Văn Tân và bà Đặng Thị Oanh cho vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Thành Vân và bà BĐ_Nguyễn Thị Thanh vay tổng cộng 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng (ngày 08/5/2010 vay 300.000.000 đồng, ngày 20/9/2010 vay 50.000.000 đồng), lãi suất thỏa thuận 18%/năm, không ghi thời hạn vay, khi nào cần lấy lại tiền thì ông NĐ_Tân, bà Oanh báo cho ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trước 15 ngày. Đến ngày 22/11/2011, bà Đặng Thị Oanh qua đời và do cần tiền để trị bệnh nên ông BĐ_Vân yêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trả lại số tiền 350.000.000 đồng nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh không đồng ý. Vì thế vào tháng 7/2012 ông làm đơn gửi Ủy ban nhân dân phường 3 quận BT giải quyết nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh vẫn không có thiện chí trả nợ. Nay ông BĐ_Vânêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh phải trả cho ông số tiền đã vay là 350.000.000 đồng và tiền lãi của số tiền này là 43.200.000 đồng, tổng cộng 393.200.000 đồng.