cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1579/2014/DSPT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1236
  • 37

Tranh chấp thừa kế

15-12-2014
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn - ông NĐ_Phạm Văn Bình trình bày: Cha ông là ông Phạm Văn Mười và mẹ là bà Phạm Thị Quý có 11 người con chung, không có con riêng gồm: Ông NĐ_Phạm Văn Bình (nguyên đơn); ông BĐ_Phạm Văn Thông (bị đơn); bà LQ_Phạm Thị Kim Thư; bà LQ_Phạm Thị Kim Phụng; bà LQ_Phạm Thị Kim Linh; bà LQ_Phạm Thị Kim Hải; bà LQ_Phạm Thị Kim Giang; bà LQ_Phạm Thị Kim Châu; ông LQ_Phạm Văn Sâm; ông LQ_Phạm Văn Đông; ông LQ_Phạm Văn Hà (chết năm 2008 - có vợ là bà Nguyễn Ngọc Em và 2 người con là bà Phạm Thị Kim Oanh và ông Phạm Ngọc Tùng)


675/2016/DS-PT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 862
  • 35

Tranh chấp thừa kế

02-06-2016
TAND cấp tỉnh

Trong quá trình chung sống ông Bèn và bà Chính tạo lập được căn nhà có diện tích 114,7m2 tọa lạc tại số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM (nhà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở). Ông Bèn chết năm 1982 không để lại di chúc, tính đến thời điểm bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện nên phần di sản của ông Bèn để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM được các đồng thừa kế của ông Bèn thỏa thuận là tài sản chung tại biên bản thỏa thuận ngày 07/12/2008. Đối với phần di sản của bà Chính để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM, phía bị đơn cung cấp di chúc thì bà NĐ_Linh đề nghị Tòa án xem xét tính hợp pháp của di chúc để phân xử theo quy định của pháp luật. Nay bà NĐ_Linh khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của bà Chính và tài sản chung của các đồng thừa kế (phần di sản của ông Bèn đã được các đồng thừa kế thỏa thuận) là giá trị nhà, đất nêu trên theo quy định của pháp luật.


100/2013/GĐT-DS: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1734
  • 109

Tranh chấp thừa kế

12-08-2013

Theo đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993 nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng trình bày: Cha mẹ ông là cụ Vũ Đình Quảng và cụ Nguyễn Thị Thênh sinh được 6 người con là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, ông, bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền) và bà Vũ Thị Hậu. Cụ Quảng và cụ Thênh tạo lập được căn nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, diện tích 123m2. Năm 1979 cụ Quảng chết không để lại di chúc, căn nhà do cụ Thênh và 3 con là ông, bà Hậu, bà Tiến ở; ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm đều xuất cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày 28/10/1982, cụ Thênh và ông, bà Tiến, bà Hậu thỏa thuận tạm thời phân chia nhà thành 3 phần cho ông, bà Hậu và bà Tiến sử dụng. Năm 1987, cụ Thênh chết. Sau đó năm 1989, bà Tiến đã lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh. Khi ông đã có đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày 31/10/1993 bà Hậu đã bán tiếp phần nhà bà Hậu được tạm chia cho bà Hà Thùy Linh.


675/2016/DS-PT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 583
  • 49

Tranh chấp thừa kế

02-06-2016
TAND cấp tỉnh

Trong quá trình chung sống ông Bèn và bà Chính tạo lập được căn nhà có diện tích 114,7m2 tọa lạc tại số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM (nhà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở). Ông Bèn chết năm 1982 không để lại di chúc, tính đến thời điểm bà NĐ_Loan có đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện nên phần di sản của ông Bèn để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM được các đồng thừa kế của ông Bèn thỏa thuận là tài sản chung tại biên bản thỏa thuận ngày 07/12/2008. Đối với phần di sản của bà Chính để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM, phía bị đơn cung cấp di chúc thì bà NĐ_Loan đề nghị Tòa án xem xét tính hợp pháp của di chúc để phân xử theo quy định của pháp luật. Nay bà NĐ_Loan khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của bà Chính và tài sản chung của các đồng thừa kế (phần di sản của ông Bèn đã được các đồng thừa kế thỏa thuận) là giá trị nhà, đất nêu trên theo quy định của pháp luật.


52/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1276
  • 35

Tranh chấp thừa kế

21-11-2014

Cụ Nguyễn Văn Tròn (chết năm 1990) và cụ Hồng Thị Diệu (chết năm 1976) có 8 người con là ông Nguyễn Văn Bê (chết năm 1965, là cha của anh Tâm), bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị Chơi (có chồng là ông Nguyễn Văn Dũng là bị đơn), bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Văn Quây, bà Nguyễn Thị Nho, bà Nguyễn Thị Quăn (chết năm 1982), ông Nguyễn Văn Em. Hai cụ khai phá được khoảng 800m2 đất tại 20/1 Lương Đình Của, Ấp 4, phường An Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh và đã cất nhà lá trên đất để ở. Năm 1962, ông Bê cất nhà gỗ thay nhà lá để cha mẹ ở. Năm 1985, ông Quây xin cụ Tròn cho vợ chồng bà Chơi cất nhà mái lá 40m2 để ở, nhà số 20/2. Năm 1988, bà A ly hôn về cất nhà vách lá ở tạm diện tích 40m2 đất, chưa có số nhà. Năm 1992, ông Em chuyển nhượng khoảng 150m2 đất cho người khác được 4 cây vàng, đã chia tiền cho các anh chị em. Đất còn khoảng 650m2.