cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

05/DS-GĐT: Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1172
  • 30

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

17-01-2014

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị NĐ_Phạm Thị Thương trình bày: Tôi và anh BĐ_Trần Anh Tú có kết hôn hợp pháp vào năm 1995 tại UBND phường Cẩm Sơn, thị xã CP, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tôi và anh BĐ_Tú sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh BĐ_Tú đi làm thường xuyên về nhà muộn, chơi bời rồi về nhà gây sự, đánh đập, chửi bới tôi. Từ lý do đó tôi và anh BĐ_Tú thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau, có lần hàng xóm phải can thiệp. Ngoài ra, anh còn không bênh vực tôi khi tôi có va chạm với gia đình bên nội. Từ tháng 10 năm 2011, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, tôi đã đưa con nhỏ đi chỗ khác ở; nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.


04/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản sau ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 833
  • 26

Tranh chấp tài sản sau ly hôn

17-01-2014

Chị NĐ_Nguyễn Thị Cường trình bày: Chị và anh BĐ_Đương kết hôn năm 1986, vợ chồng sinh được 3 người con. Trong cuộc sống vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, sống không hạnh phúc. Năm 1996 sau nhiều lần bị anh BĐ_Đương đánh đập, vì quá thương con nên chị mang theo 3 con đi lánh nạn sống tha phương. Trước khi mang con đi chị có bàn giao tài sản cho anh BĐ_Đương quản lý và mẹ chồng trông coi. Nay các con đã trưởng thành, chị cùng các con trở về quê sinh sống thì được biết anh BĐ_Đương đã ly hôn và tuyên bố chị mất tích theo Quyết định của bản án số 10 ngày 30-9-1998 của Tòa án nhân dân huyện HL.


521/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 948
  • 15

Tranh chấp quyền sử dụng đất

17-12-2014

Bố mẹ bà có 1501m2 đất tại khu liên minh, phường MP, thành phố VT, tỉnh PT, nên đã cho hai chị em bà diện tích đất trên. Trong đó bà được hưởng là 781m2 đã được UBND thành phố VT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 705355 ngày 07/04/2005 thửa đất số 232-1, tờ bản đồ số 10, mảnh đất này giáp ranh với hộ bà Đào Thị Quy có chiều dài là 25m, một chiều giáp đường giao thông xóm 25m, chiều rộng phía trên giáp đường 23,6m (thiếu l,4m). Diện tích thực tế còn lại của bà là 683,04m2, bị thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 97,96m2. Bà cho rằng phần diện tích còn thiếu như trên do hộ bà BĐ_Đan lấn chiếm khoảng 70m2, còn khoảng 30m2 do Nhà nước lấy làm đường giao thông. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Đan phải trả phần diện tích đất đã lấn chiếm như trên. Phần cây lâm lộc trên diện tích đất (sấp sỉ 70m2) bà chấp nhận cho hộ bà BĐ_Đan thu hoạch.


520/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 544
  • 23

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

17-12-2014

Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng, các nguyên đơn bà NĐ_Phan Thị Hồng, bà NĐ_Phan Thị An và bà NĐ_Phan Thị Kiều trình bày: Vợ chồng cụ Phan Tấn Ngọc (chết ngày 04/12/2003 âm lịch), cụ Lâm Thị Bê (chết năm 2001) đều không để lại di chúc; hai cụ có 06 con là: bà LQ_Phan Thị Linh, bà LQ_Phan Thị Duyên, ông BĐ_Phan Thành Lâm, bà NĐ_Phan Thị Hồng, bà NĐ_Phan Thị An và bà NĐ_Phan Thị Kiều. Di sản của các cụ để lại gồm hai phần đất: Một phần đất diện tích 35.730m2 tọa lạc tại ấp Bùng Binh II, xã HT, thành phố CM, tỉnh CM và một phần đất diện tích khoảng 09 công tầm 03m tọa lạc tại ấp Tân Hóa A, xã HT, thành phố CM. Cả hai phần đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Phan Tấn Ngọc, hiện do ông BĐ_Lâm đang quản lý, sử dụng. Nay bà NĐ_Hồng, bà NĐ_An và bà NĐ_Kiều yêu cầu chia thừa kế, mỗi người 1/4 trong số đất mà cha mẹ để lại và trừ ra 10.000m2 đất của phần đất tại ấp Bùng Binh II, xã HT giao ông BĐ_Lâm quản lý để làm đất hương hỏa.


519/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 777
  • 17

Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

16-12-2014
TAND cấp huyện

Năm 1994, ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Cẩm Hoa chung sống với nhau như vợ chồng (không đăng ký kết hôn). Trong thời gian chung sống với bà BĐ_Hoa, ông NĐ_Bình đã đưa cho bà BĐ_Hoa: - 20 chỉ vàng 24k để bà BĐ_Hoa trả nợ riêng trước khi về chung sống với nhau; - Cho bà BĐ_Hoa 10.000.000đ để tiêu sài trong thời gian chấp hành hình phạt tù (hồ sơ không có tài liệu tù về tội gì, thời hạn bao nhiêu); - Giao cho bà BĐ_Hoa cất giữ tài sản do hai người tạo lập gồm 01 đôi bông tai 10 chỉ vàng, 05 chỉ vàng và 50.000.000đ (không có tài liệu chứng minh giao). Ngoài ra, ông còn nhận chuyển nhượng 18.942m2 đất của bà Chắc Thị Nhớ (nay bà Nhớ đã chết), giá 12 chỉ vàng, nhưng sau đó bà Bảy làm thủ tục đứng tên riêng. Nguồn gốc tiền để mua đất của là do ông trúng vé số và vay mượn của một sô người khác; sau này ông và bà BĐ_Hoa làm ruộng có tiền đã trả nợ tiền vay mua đất.