cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

20/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 590
  • 10

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

19-08-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện bà NĐ_Hoàng Thị Minh ủy quyền cho bà Dương Thị Khánh Phương đại diện trình bày: Vào năm 1992, vợ chồng bà NĐ_Minh có nhận chuyển nhượng của bà Lê Thu Thuỷ khoảng 131,88 m2 đất, ngay trong năm 1992, vợ chồng bà NĐ_Minh đã cất nhà và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Nay nhà đất nằm trong khu quy hoạch giải toả, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định số 5629/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2011, theo nội dung của quyết định thì BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X chỉ bồi thường cho vợ chồng bà NĐ_Minh phần diện tích đất là 54,77 m2 và đền bù phần kiến trúc trên đất không đúng với thực tế nên từ đó bà NĐ_Minh đã khiếu nại đến BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, qua khiếu nại, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011 có nội dung đền bù hổ trợ thêm cho bà NĐ_Minh số tiền 112.320.885 đồng. Việc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành 2 quyết định số 5629/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2011 và quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011 bồi thường hổ trợ cho bà NĐ_Minh không đúng thực tế, không thoả đáng nên bà NĐ_Minh tiếp tục khiếu nại và BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 675/QĐ- UBND-TTr ngày 11 tháng 1năm 2012 có nội dung giữ nguyên nội dung quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011.


18/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 483
  • 12

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

29-07-2014
TAND cấp huyện

Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2011, Đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 01/10/2013, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Nguyễn Thị Đa có ông Hà Ngọc Tuyền là người đại diện theo ủy quyền yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy Quyết định số 10293/QĐ – UBND ngày 19/7/2010 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và Quyết định số 12179/QĐ – UBND – TTr ngày 16/9/2011; yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải bồi thường toàn bộ 3.597m2 theo mức 100% giá đất ở là 16.200.000đ/m2 vì vào thời điểm thu hồi giải tỏa để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2 đất này đã được san lấp theo Giấy phép số 40/GP – UB – QLĐT ngày 05/4/2000 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và có vị trí mặt tiền đường, đất thu hồi có nguồn gốc là đất trong cùng một thửa có nhà ở; yêu cầu công nhận diện tích 3.597m2 đất bị thu hồi thuộc quyền sở hữu chung của 26 hộ dân, không phải của cá nhân bà NĐ_Nguyễn Thị Đa, buộc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải xét hạn mức bồi thường cho 26 hộ chứ không phải hạn mức bồi thường cho 01 hộ.


16/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 322
  • 8

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

16-07-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh ủy quyền ông Thái Hữu Nghĩa đại diện trình bày: Ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh có quản lý và sử dụng 01 căn nhà không số- Tổ 3- KP 1- Phường ALĐ- Quận X và diện tích 817,44 m² đất mà căn nhà tọa lạc. Nhà đất có nguồn gốc là của ông ông Nguyễn Văn Cường tạo lập trước năm 1975, ông Nguyễn Văn Cường là ông ngoại của ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh. Ông Nguyễn Văn Cường chết năm 1994. Năm 1996 theo di huấn của ông Nguyễn Văn Cường, nhà đất này được những người thừa kế của ông Nguyễn Văn Cường thỏa thuận nhường lại toàn bộ cho ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh quản lý và sử dụng và ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh là người trực tiếp quản lý và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Nhà đất nằm trong khu quy hoạch giải tỏa khu đô thị mới Thủ thiêm. Ngày 12 tháng 03 năm 2004, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 1217/QĐ-UB về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại giải phóng mặt bằng căn nhà không số- Tổ 3- KP 1- Phường ALĐ- Quận X của hộ ông NĐ_Nguyễn Quang Thảnh.


14/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 379
  • 12

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

16-07-2014
TAND cấp huyện

Ngày 18/11/2013 và ngày 03/01/2014, gia đình bà NĐ_Xinh lần lượt nhận được Quyết định số 6432/QĐ-UBND ngày 15/11/2013 và Quyết định số 7908/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của BĐ_Uỷ ban nhân dân quận TĐ về việc chi trả và chi trả bổ sung tiền bồi thường, hỗ trợ dự án mở rộng Quốc lộ 1, đoạn từ nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương đối với hộ gia đình bà NĐ_Xinh, tuy nhiên bà NĐ_Xinh không đồng ý với nội dung của hai quyết định này, bởi lẽ hai quyết định này được ban hành không đúng pháp luật và không phù hợp với thực tế sử dụng đất của gia đình bà NĐ_Xinh, cụ thể là: - Thứ nhất: cả hai Quyết định số 6432/QĐ-UBND ngày 15/11/2013 và Quyết định số 7908/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của BĐ_Uỷ ban nhân dân quận TĐ được ban hành dựa trên căn cứ pháp lý trái pháp luật cụ thể như sau:


11/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 813
  • 10

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

12-05-2014
TAND cấp huyện

Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp. Về nguồn gốc đất do chồng bà là ông Nguyễn Văn Tuồng nhận chuyển nhượng của ông Võ Minh Chánh từ trước ngày 15/10/1993. Từ ngày nhận chuyển nhượng ông Tuồng trông coi diện tích đất nêu trên, đến năm 1999 ông Tuồng làm giấy tay chia phần đất này làm 4 phần bằng nhau cho 3 người con mỗi người một phần, vợ chồng bà sử dụng một phần, có số nhà riêng cho từng người: ông LQ_Nguyễn Minh Gô số nhà 20/12A, ông LQ_Nguyễn Minh Sanh số nhà 20/12B, ông LQ_Nguyễn Minh Nam số nhà 20/12C xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM. Do đó các con bà phải được lập hồ sơ đền bù riêng cho từng người. Ngoài ra, khi bị thu hồi một phần đất tại số 20/16 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM đã hoàn tất hồ sơ bồi thường, gia đình đã đồng ý và đã nhận bồi thường tuy nhiên khi bị thu hồi ở phần đất 20/12 xa lộ Hà Nội, tổ 10, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM thì lại tính giá đất nông nghiệp. Mức giá này là không phù hợp đúng ra phải bồi thường 200m2 đất ở, phần còn lại là tính giá đất xen kẽ khu dân cư, đất nông nghiệp.