cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

10/2010/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán thiết bị âm thanh Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 585
  • 14

Tranh chấp hợp đồng mua bán thiết bị âm thanh

21-09-2010
TAND cấp huyện

Theo biên bản làm việc ngày 27/7/2006 thì Cửa hàng Quang Huy đồng ý khắc phục những sơ suất: Bảo hành hàng hóa, đảm bảo hàng hóa hoạt động tốt tương tự hàng hóa đã cam kết, phù hợp với yêu cầu của bên mua. Cửa hàng Quang Huy trả lại cho NĐ_Công ty Phước Đan 500 đô la Mỹ tiền vi phạm hợp đồng. Nhưng thời gian sau đó Cửa hàng Quang Huy không thực hiện các cam kết đã thỏa thuận, không thực hiện bảo hành cho các thiết bị máy móc hư hỏng nên NĐ_Công ty Phước Đan đã đi thuê những thiết bị khác dùng tạm. Cho đến ngày 15/7/2006 NĐ_Công ty Phước Đan đã phải mua lại toàn bộ thiết bị của Công ty khác.


29/2010/HS/GĐT: tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140) Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1180
  • 26

(Điều 140) Vụ án Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

01-11-2010

Trong quá trình làm dịch vụ chuyển tiền cho Doanh nghiệp Phú Vân, vợ chồng Lan Anh đã lợi dụng lòng tin của các khách hàng là bà Nguyễn Thị Liên và bà Nguyễn Thị Thu chiếm đoạt tiền của họ; cụ thể như sau: Việc chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Liên/ Giám đốc Công ty Long Thành Đạt: Trong thời gian từ ngày 15/02/2007 đến ngày 12/6/2007, bà Nguyễn Thị Liên đã 40 lần chuyển tiền cho vợ chồng Lan Anh để thanh toán cho Công ty Yamaha Việt Nam với tổng số tiền là 18.215.000.000 đồng. Theo yêu cầu của bà Liên thì vợ chồng Lan Anh đã 25 lần chuyển tiền qua Ngân hàng City Bank vào tài khoản của Công ty Yamaha Việt Nam với số tiền là 11.774.000.000 đồng; 04 lần chuyển tiền ra Doanh nghiệp Phú Vân (Hà Nội) để trả cho anh Nguyễn Đức Sơn (anh trai bà Liên) số tiền 103.700.000 đồng và 02 lần chuyển đến Ngân hàng Công thương Sài Gòn chi nhánh 9 với số tiền là 4.300.000.000 đồng để trả nợ vay Ngân hàng cho Công ty Long Thành Đạt, 01 lần chuyển lại cho Công ty Long Thành Đạt 450.000.000 (BL 375). Tổng số tiền vợ chồng Lan Anh đã chuyển theo yêu cầu của bà Liên là 16.827.700.000 đồng. Số tiền còn lại là 1.387.300.000 đồng, vợ chồng Lan Anh đã sử dụng cho mục đích cá nhân, sau đó bỏ trốn.


900/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 860
  • 30

Ly hôn

24-12-2010

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 02/02/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Huỳnh Hữu Chiến (Măng) trình bày: Anh và chị Diễm chung sống như vợ chồng từ năm 1986, không có đăng ký kết hôn. Anh, chị có 3 con chung là Huỳnh Ngọc Thùy sinh năm 1988; Huỳnh Ngọc Thoa sinh năm 1989 và Huỳnh Ngọc Thương sinh năm 1999. Hai anh, chị tạo lập được 3.996m2 đất tại xã PT, huyện NT, hiện do chị Diễm đứng tên, một căn nhà làm nhờ trên đất của chị Huê (là chị gái của anh), một xe ô tô 16 chỗ ngồi; 15.000.000 đồng tiền bán xe Honda Drem và một số tài sản nhỏ khác.


836/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 965
  • 31

Ly hôn

20-12-2010

NHẬN THẤY: Theo đơn xin ly hôn ngày 05/11/2008 chị Nguyễn Thị Thanh Trà trình bày: chị và anh Ngà tự nguyện yêu thương và cùng chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn ngày 24/10/2000 tại UBND xã Giang Điền, huyện TB. Quá trình chung sống, anh Ngà không quan tâm chăm sóc đến vợ con, sống thiếu trách nhiệm với gia đình và còn có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Nay chị không còn tình cảm gì với anh Ngà. Vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và sống ly thân từ tháng 8/2008 cho đến nay, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Về con chung: chị yêu cầu được nuôi cả hai con chung là cháu Phạm Duy Phúc sinh ngày 27/9/2002 bị bệnh bại não và cháu Phạm Thanh Vy sinh ngày 16/6/2008. Chị yêu cầu anh Ngà cấp dưỡng cho cháu Phúc mỗi tháng 1.500.000đ cấp dưỡng đến suốt đời và cấp dưỡng cho cháu Vy mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi cháy Vy đến 18 tuổi.


798/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 969
  • 30

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

15-12-2010

Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị Thủy trình bày: vào ngày 01/5/2006 bà Nguyên có vay của bà số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất là 1,5% một tháng. Bà Nguyên có làm biên nhận nợ và có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD716199 và AD967680 mang tên Nguyễn Quốc Việt. Ngày 18/12/2006 do chưa trả nợ nên bà Nguyên viết một giấy cam kết hẹn ngày 17/01/2007 sẽ trả hết nợ và lãi cho bà. Nhưng đến nay bà Nguyên không thực hiện cam kết trả nợ nên bà yêu cầu bà Nguyên cùng ông Việt liên đới trả số tiền 300.000.000đ vốn và tiền lãi tính theo quy định của pháp luật là 72.967.000đ.