cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

491/2014/HSST: Vụ án Cướp giật tài sản Sơ thẩm Hình sự

  • 360
  • 1

(Điều 136) Vụ án Cướp giật tài sản

12-12-2014
TAND cấp huyện

Tuyên bố các bị cáo Vi Trung Đông, Trần Tuấn Bảo phạm tội “Cướp giật tài sản”. 1/ Áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 136; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Vi Trung Đông 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2014.


129/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 196
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-03-2014

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông NĐ_Nguyễn Minh Chung trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã QP, huyện QT, tỉnh QB. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi qua một phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông BĐ_Nguyễn Quang Đông và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiên đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên; đồng thời ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.


112/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 176
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-03-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 5/9/2005 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Khoa trình bày: Năm 1959, cha mẹ ông lập di chúc chia tài sản cho các con (có xác nhận của chính quyền chế độ cũ). Theo di chúc ông được hưởng 1,6 công đất (1.600m2) trên đất có căn nhà hương quả (tại ấp 4, xã APT, huyện BT). Do lúc được chia đất ông còn đi học nên chị gái là bà Nguyễn Thị Mừng quản lý và sử dụng. Năm 1967, vợ chồng bà Mừng lén bán căn nhà hương quả trên đất cho bà Võ Thị Đâu và cho bà Đâu thuê đất với thời hạn 15 năm (1967 đến 1982).


875/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 209
  • 1

Ly hôn

27-09-2013
TAND cấp huyện

Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc. Ông BĐ_Dũng không quan tâm đến cuộc sống của gia đình. Nhận thấy vợ chồng không thể chung sống được nữa, tình cảm của bà đối với ông BĐ_Dũng cũng không còn nên bà khởi kiện yêu cầu được ly hôn. - Về con chung: Có một trẻ tên Lê Thị Ngọc Trinh - sinh ngày 17/8/2003 hiện đang ở với bà, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng không yêu cầu ông BĐ_Dũng cấp dưỡng nuôi con. - Về tài sản chung: Bà khai không có.


322/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 175
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-07-2013

Ngày 27-3-2006, vợ chồng ông, bà chuyển nhượng cho vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Út Nhung, ông LQ_Lê Văn Thạnh 14 công đất ruộng tại ấp Hậu Bối 2, xã MD, huyện HB, tỉnh BL với giá 215.000.000đồng. Ngày 06- 7-2007, vợ chồng ông, bà chuyển nhượng tiếp cho vợ chồng bà BĐ_Nhung 1,5 công đất ở và đất vườn liền kề với giá 14,5 chỉ vàng/công và để trốn tiền thuế, hai bên thống nhất chỉ ghi giá chuyển nhượng cả hai lần là 215.000.000đồng. Hợp đồng chuyển nhượng được ủy ban nhân dân xã MD chứng thực. Nay vợ chồng bà BĐ_Nhung đã dược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa thanh toán tiền nhận chuyển nhượng đất lần sau nên vợ chồng ông, bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà BĐ_Nhung trả lại 1,5 công đất và trả tiền thuê 1,5 công đất trong 2 năm là 60 giạ lúa.