cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

15/2006/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1693
  • 38

Đòi lại nhà cho ở nhờ

26-12-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền ngày 04/10/2004 và lời khai của người đại diện theo uỷ quyền của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền trình bày: Lô đất đang tranh chấp có nguồn gốc ông Lương Duy Ủy mua của bà Tôn Nữ Thị Phúc, ông Lương Duy Ủy qua đời từ năm 1968. Bà NĐ_Tuyền tiến hành làm thủ tục thừa kế căn nhà trên, cũng trong thời gian này bà NĐ_Tuyền cho ông Hoàng Hiệu ở nhờ, năm 1972 bà NĐ_Tuyền gửi nhà cho bà Nguyễn Thị Sinh trông coi giùm, cuối năm 1972 bà Sinh tự động cho bà Nguyễn Thị Cất ở nhờ một thời gian.


390/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1387
  • 36

Tranh chấp quyền sử dụng đất ở nhờ

20-08-2009

Năm 1987, ông có nhận chuyển nhượng 380m2 đất của ông Trần Minh Thanh. Khi chuyển nhượng, đã có gia đình bà BĐ_Huỳnh Thị Kha đang ở nhờ trên đất của ông Thanh, phần đất ở nhờ là phần nhà sàn trên mương, ông vần đồng ý cho gia đình bà BĐ_Kha tiếp tục ở nhờ, thỏa thuận hết 3 năm thì gia đình bà BĐ_Kha phải chuyển đi nơi khác. Khi ngôi nhà sàn bằng cây tạp của gia đình bà BĐ_Kha bị hư, bà BĐ_Kha đã năn nỉ ông cho cất lại nhà và tiếp tục ở nhờ, ông đã đồng ý cho cất lại nhà trên diện tích đất 38m2. Năm 2001, gia đình bà BĐ_Kha san lấp mương thoát nước nhưng ông không đồng ý. Ngày 30/3/2001, bà BĐ_Kha đã làm tờ cam kết với nội dung ở nhờ trên đất của ông và khi muốn che chắn theo hiện trạng cũ phải được sự đồng ý của ông. Năm 2003, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển nhượng của ông Thanh, tổng diện tích là 325,7m2 gồm 2 thửa 1794 và 297, phần đất gia đình bà BĐ_Kha ở nhờ thuộc thửa 297. Ngày 21/7/2005, gia đình bà BĐ_Kha lại tiếp tục san lấp mặt băng và nâng cấp nhà ở dù không có sự đồng ý của ông. Nay ông yêu cầu gia đình bà BĐ_Kha phải tháo dỡ, di dời nhà đi nơi khác và trả lại phần đất đang ở nhờ.


104/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 746
  • 38

Đòi lại nhà cho ở nhờ

14-08-2013

Ngôi nhà số 62 NTN, quận HBT, thành phố HN (sau đây gọi là nhà số 62 NTN) thuộc thửa số 841, tờ bản đồ số 10, diện tích 230m2, mang bằng khoán điền thổ số 120p - Khu Đồn thủy, thuộc quyền sở hữu của cụ Đỗ Huy Đương và cụ Đỗ Thị Vương. Năm 1979, cụ Đương lập di chúc chia ngôi nhà trên cho 5 người con. Ngày 26/12/1959, cha mẹ bà có hợp đồng cho ông BĐ_Nguyễn Quang Mỹ thuê một nửa gian phòng tầng 1 diện tích là 13,5m2 (trước là Gara ô tô), thời hạn thuê là 01 năm, giá thuê là 08đ/tháng, hết hạn hợp đồng hai bên không ký hợp đồng mới, ông BĐ_Mỹ tiếp tục ở. Tháng 12/1975, hai cụ lại cho ông BĐ_Mỹ ở nhờ nốt nửa gian còn lại, đồng thời ông BĐ_Mỹ viết Giấy cam đoan ngày 18/12/1975, thể hiện diện tích cho thuê và cho ở nhờ là 27m2. Từ năm 1981, 1982 đến nay, phía nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Mỹ cùng gia đình trả lại toàn bộ diện tích nhà cho thuê và cho ở nhờ nhưng gia đình ông BĐ_Mỹ không trả


54/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 787
  • 35

Đòi lại nhà cho ở nhờ

28-05-2013

Nguồn gốc nhà đất tại 161/36 (số cũ 161/137b) BHN, phường 7, quận Y, thành phố HCM là tài sản của cố Phan Thị Tuyết (là mẹ của cụ) mua từ năm 1950, có giấy phép tạm cất nhà do chính quyền chế độ cũ cấp. Cố Tuyết có 3 người con gái là cụ Bùi Thị Chính (Chôm), cụ Phan Thị Hiên và cụ (NĐ_Phan Thị Dung). Năm 1965 cố Tuyết chết không để lại di chúc. Ngày 07/8/1969 ba chị em cụ lập Văn bản thỏa thuận đồng ý cho cụ được thừa hưởng nhà đất nêu trên. Khi còn sống, năm 1959 cố Tuyết cho vợ chồng cụ Châu Văn Uẩn, cụ Tô Niên ở nhờ căn nhà trên, việc cho ở nhờ không làm giấy tờ. Năm 1980 cụ Uẩn chết, tháng 8/1993 cụ Tô Niên chết. Hiện nay căn nhà do ông BĐ_Phan Văn Quý (là con nuôi của vợ chồng cụ Tô Niên) quản lý, sử dụng nên cụ khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Quý trả nhà và cụ đồng ý thanh toán chi phí xây dựng cho ông BĐ_Quý.


37/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1248
  • 43

Đòi lại nhà cho ở nhờ

16-07-2014
TAND cấp huyện

Vào năm 2003, ông NĐ_Nguyễn Văn Nhã có mua của ông BĐ_Tống Quốc Xuân phần đất có chiều ngang 4,5m, dài 13m, diện tích 58,5m2 nằm trong thửa đất số 19, tờ bản đồ 34, tọa lạc tại khóm 3, phường 8, thành phố ST, tỉnh ST. Việc mua bán được lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 26/3/2003 có chứng thực của Ủy ban nhân dân phường 8, thị xã ST, tỉnh ST. Sau khi mua đất thì ông cất căn nhà trệt có diện tích 50m2 hiện tọa lạc tại số 117/20 PH, khóm 3, phường 8, thành phố ST, tỉnh ST. Vào năm 2005, chị của ông là bà BĐ_Nguyễn Thị Mộng Hoa do khó khăn về nhà ở nên được ông cho vào ở nhờ trong căn nhà, đất này. Đến năm 2010 thì bà BĐ_Hoa có ý định chiếm nhà, đất nên ông NĐ_Nguyễn Văn Nhã yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Nguyễn Thị Mộng Hoa di dời trả lại cho ông căn nhà, đất số 117/20 PH, khóm 3, phường 8, thành phố ST, tỉnh ST; có chiều ngang 4,5m, dài 13m, diện tích 58,5m2 nằm trong thửa đất số 19, tờ bản đồ 34, tọa lạc tại khóm 3, phường 8, thành phố ST, tỉnh ST.