cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

217/2014/DS-GĐT: Đòi lại quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 622
  • 15

Đòi lại quyền sử dụng đất

05-06-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 20/7/2006 của ông NĐ_Nguyễn Văn Hào, Đơn khởi kiện ngày 30/3/2012 của nhũng người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông NĐ_Nguyễn Văn Hào và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện cho nguyên đơn và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Hoàng Nga trình bày: Ông NĐ_Nguyễn Văn Hào, sinh năm 1927, chết ngày 13/10/2011. Lúc còn sống có đứng đơn khởi kiện bà BĐ_Nguyễn Thị Tâm về việc yêu cầu buộc bà BĐ_Tâm phải trả cho ông NĐ_Hào 230m2 đất thuộc thửa 928 tọa lạc tại ấp Tân Phú 2, xã TTB, huyện CG, tỉnh TG. Phần đất nêu trên nằm trong tổng diện tích 4.500m2 có nguồn gốc của cụ Nguyễn Văn Tiên cho ông NĐ_Nguyễn Văn Hào và bà Phan Thị Ảnh (vợ ông NĐ_Hào) canh tác từ năm 1966. Ông NĐ_Hào là người đứng tên kê khai thửa đất này theo chứng khoán ngày 18/7/1972 (thửa số 1023M tờ bản đồ số 135, diện tích 0,48ha).


525/2014/DS-GĐT: Đòi lại quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 490
  • 6

Đòi lại quyền sử dụng đất

17-12-2014

Nguyên đơn trinh bày: Vào năm 1994, vợ chồng ông được ban khai hoang cấp cho một lô đất tọa lạc tại ấp Mỹ Lộc, xã TM, huyện TP, tỉnh TG có diện tích 14.662m2. Sau khi được cấp đất ông đã thuê người lên líp được một phần. Đến năm 1997 ông BĐ_Hoàng Hữu là anh cọc chèo hỏi mượn phần đất này để canh tác và xin đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước cho người đi khai hoang, ông cũng đồng ý và thỏa thuận khi nào các con ông BĐ_Hữu trưởng thành thì trả lại cho ông. Hai bên đã làm hợp đồng giả chuyển nhượng quyền sử dụng đất để sang tên cho ông BĐ_Hữu đứng tên phần đất này lúc đó có con gái lớn ông BĐ_Hữu là chị Hoàng Thị Hiền biết. Sau khi ông BĐ_Hữu gả con gái út, ngày 30/4/2009 vợ chồng ông đến yêu cầu ông BĐ_Hữu trả lại đất, ông BĐ_Hữu đồng ý và ký vào 04 giấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đưa ông giấy chứng minh nhân dân để làm thủ tục sang tên


419/2014/DS-GĐT: Đòi lại quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 524
  • 7

Đòi lại quyền sử dụng đất

16-10-2014

Năm 1993, bà đăng ký Ủy ban nhân dân (UBND) xã HS, huyện Tam Đảo (nay là huyện BX), tỉnh VP xin cấp 04 xuất đất (300m2/xuất). Do mỗi người chỉ được đăng ký một xuất, nên bà nhờ cụ Hoàng Văn Thảo (là bố của bà), bà BĐ_Nguyễn Thị Hương và bà Nguyễn Thị Hạnh mỗi người đứng tên đăng ký hộ 01 xuất và bà cũng đứng tên đăng ký 01 xuất, bà trực tiếp nộp tiền 04 xuất đất, mỗi xuất 480.000đ cho ông Nguyễn Tiến Hồng (là cán bộ địa chính xã HS); ông Hồng có viết phiếu tạm thu đứng tên 4 người, sau đó bà được nhận 4 xuất đất, trong đó đất bà đứng tên là ô số 01, cụ Thảo ô số 02, bà BĐ_Hương ô số 03, bà Hạnh ô số 04.


218/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 721
  • 22

Đòi lại quyền sử dụng đất

02-07-2015
TAND cấp huyện

Theo nội dung đơn khởi kiện và lời khai của nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Anh Hiền và bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Phượng: Vợ chồng ông bà là người sử dụng hợp pháp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 797622680300746 do LQ_Ủy ban nhân dân quận TĐ cấp ngày 21/7/2008 đối với nhà đất ở số 5/2 đường 2, khu phố 6, phường HBP, quận TĐ, Tp.HCM. Năm 2005, ông LQ_Nguyễn Minh Phải (là cháu con chị ruột ông NĐ_Hiền là bà Bông) cùng vợ tên LQ_Phạm Phi Lưu có xin ông bà cho ở nhờ vài tháng trong phần nhà đất phía sau nhà bếp của ông, diện tích khoảng 11 m2 để làm ăn sinh sống, khi có chỗ khác BĐ_Phải sẽ dọn đi. Thấy hoàn cảnh vợ chồng BĐ_Phải khó khăn nên vợ chồng ông đồng ý cho ở nhờ và tạo điều kiện cho BĐ_Phải nhập hộ khẩu. Tuy nhiên vào năm 2008 ông LQ_Phải tự ý sửa chữa ba bức tường không xin phép, sau khi sinh con thì không chịu dọn đi như lời hứa ban đầu


406/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 726
  • 16

Đòi lại quyền sử dụng đất

28-12-2008

Theo đơn khởi kiện ngày 28-11-2003 và các lời khai tiếp theo anh NĐ_Thanh trình bày: nguồn gốc đất là của gia dinh anh khai hoang phục hóa ruộng của ông nội anh vào năm 1976 để canh tác. Đến năm 1979 gia đình anh đưa ruộng vào Tập đoàn, sau đó, nhà nước khoán lại cho bà Trương Thị Huê (em của ông nội) canh tác. Năm 1981 bà Huê lên nền đất cất nhà và trồng dừa, chuối, hoa màu. Năm 1986 chủ trương nhà nước trả lại cho chủ cũ, Năm 1990 bà Huê trả lại đất cho gia đình anh còn lại 1 liếp dừa anh đồng ý để lại cho bà Huê và con gái của bà Huê bị bệnh tâm thần ở (đã chết năm 2002).