cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

05/2017/KDTM-PT: Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ Phúc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 1838
  • 81

Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ

20-06-2017
TAND cấp tỉnh

Thực tế, BĐ_Công ty Thái Minh chưa chuyển cho NĐ_Công ty Sơn Hạ bât cứ khoản tiền nào để thực hiện 02 hợp đồng quảng cáo đã ký trên. Do đó, nội dung kháng cáo trên của BĐ_Công ty Thái Minh là không có căn cứ. Bản án sơ thẩm xác định lỗi dẫn đến việc 02 Hợp đồng kinh tế số 25 và số 26 nêu trên bị chấm dứt (bị hủy bỏ) là hoàn toàn do lỗi của BĐ_Công ty Thái Minh là có cơ sở pháp lý.


2122/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1748
  • 41

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

04-10-2016
TAND cấp huyện

Ngày 29/12/2010, NĐ_Công ty phát triển nhà Thánh An (nay là NĐ_Công ty TNHH một thành viên Địa ốc Thánh An) có ký với bà BĐ_Nguyễn Thị Hoa Hợp đồng cho thuê nhà số 214/HĐTN-PTN để cho bà Hạnh thuê căn hộ 104, tầng 2 (lầu 1) Khu tạm cư NTL, phường 13, quận BT, với giá thuê là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng/tháng, ngày nhận bàn giao nhà là ngày 31/12/2010, thời hạn hợp đồng từ ngày 31/12/2010 đến ngày 30/6/2011. Khi đôi bên ký hợp đồng thuê nhà thì bà Hạnh có đặt cọc cho Công ty số tiền là 2.354.000 (hai triệu ba trăm năm mươi bốn ngàn) đồng tương đương với 02 (hai) tháng tiền thuê nhà. Sau đó bà Hạnh đã thanh toán cho Công ty được 01 tháng tiền thuê nhà từ ngày 30/12/2010 đến 30/01/2011 là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Từ ngày 01/02/2011, bà Hạnh đã ngưng không thanh toán tiền thuê nhà cho Công ty cho đến nay.


2056/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 566
  • 24

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

29-09-2016
TAND cấp huyện

Năm 2010 ông NĐ_Nguyễn Văn Tân và bà Đặng Thị Oanh cho vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Thành Vân và bà BĐ_Nguyễn Thị Thanh vay tổng cộng 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng (ngày 08/5/2010 vay 300.000.000 đồng, ngày 20/9/2010 vay 50.000.000 đồng), lãi suất thỏa thuận 18%/năm, không ghi thời hạn vay, khi nào cần lấy lại tiền thì ông NĐ_Tân, bà Oanh báo cho ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trước 15 ngày. Đến ngày 22/11/2011, bà Đặng Thị Oanh qua đời và do cần tiền để trị bệnh nên ông BĐ_Vân yêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh trả lại số tiền 350.000.000 đồng nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh không đồng ý. Vì thế vào tháng 7/2012 ông làm đơn gửi Ủy ban nhân dân phường 3 quận BT giải quyết nhưng ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh vẫn không có thiện chí trả nợ. Nay ông BĐ_Vânêu cầu ông BĐ_Vân và bà BĐ_Thanh phải trả cho ông số tiền đã vay là 350.000.000 đồng và tiền lãi của số tiền này là 43.200.000 đồng, tổng cộng 393.200.000 đồng.


1765/2016/DS - ST: Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 960
  • 47

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

28-09-2016
TAND cấp huyện

1. Chấp nhận các yêu cầu sau của nguyên đơn: Buộc ông BĐ_Nguyễn Thanh Hà trả cho bà NĐ_Nguyễn Thúy Minh khoản tiền vay theo Giấy xác nhận nợ lập ngày 5/8/2014 là 300.000.000 đồng. Chia tài sản chung của bà NĐ_Nguyễn Thúy Minh, ông BĐ_Nguyễn Thanh Hà và bà LQ_Nguyễn Thúy Phú là căn nhà 516 VVK, phường CK, Quận X, Tp. HCM theo phương thức như sau: Giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tiến hành bán đấu giá tài sản chung theo quy định pháp luật, số tiền thu được, sau khi trừ các khoản chi phí liên quan đến việc bán đấu giá sẽ được chia cho ông BĐ_Hà 45%, bà NĐ_Minh 27,5%, bà LQ_Phú 27,5%.


675/2016/DS-PT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 862
  • 35

Tranh chấp thừa kế

02-06-2016
TAND cấp tỉnh

Trong quá trình chung sống ông Bèn và bà Chính tạo lập được căn nhà có diện tích 114,7m2 tọa lạc tại số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM (nhà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở). Ông Bèn chết năm 1982 không để lại di chúc, tính đến thời điểm bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện nên phần di sản của ông Bèn để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM được các đồng thừa kế của ông Bèn thỏa thuận là tài sản chung tại biên bản thỏa thuận ngày 07/12/2008. Đối với phần di sản của bà Chính để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM, phía bị đơn cung cấp di chúc thì bà NĐ_Linh đề nghị Tòa án xem xét tính hợp pháp của di chúc để phân xử theo quy định của pháp luật. Nay bà NĐ_Linh khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của bà Chính và tài sản chung của các đồng thừa kế (phần di sản của ông Bèn đã được các đồng thừa kế thỏa thuận) là giá trị nhà, đất nêu trên theo quy định của pháp luật.