cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

360/2016/DS-ST: Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2130
  • 56

Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế

14-09-2016
TAND cấp huyện

Đến khoảng năm 1994, bà Phi quyết định phân chia đất nêu trên cho các con trong gia đình. Bà Phi đã phân chia đất cho cháu nội là bà NĐ_Nguyễn Thị Đương đại diện cho ông Nguyễn Văn Tiên 20 cao đất, cho bà NĐ_Nguyễn Thị Bốn 20 cao đất, cho bà Nguyễn Thị Thứ 20 cao đất và mọi người đều nhận đất do bà Phi cho. Phần đất còn lại là 15 cao đất, bà Phi tiếp tục sử dụng và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất còn lại này chính là phần đất hiện nay có diện tích 1.407,4m2, tại thửa đất số 92, 95, 96, 97, tờ bản đồ số 23, Bộ địa chính phường TX, Quận X (Theo tài liệu năm 2005). Khi còn sống bà Phi có lập tờ “Phân chia ruộng đất” với mục đích là để lại phần đất còn lại sau khi đã chia cho các con cháu, hiện nay còn lại diện tích là 1.407,4m2 tại thửa đất số 92, 95, 96, 97, tờ bản đồ số 23 Bộ địa chính phường TX, Quận X, Thành phố HCM (theo tài liệu 2005) là để phần đất này làm hương hỏa, không ai có quyền bán, ai quản lý sử dụng phần đất này phải lo cúng giỗ ông bà.


393/2015/DS-PT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2391
  • 48

Tranh chấp quyền sử dụng đất

06-04-2015
TAND cấp tỉnh

Ông nội của ông NĐ_Bùi Văn Nương là ông Bùi Văn Đắt (chết không rõ năm nào) để lại phần đất diện tích 5.500 m2. Sau khi ông nội chết, phần đất đó do cha ông (ông Bùi Văn Mua) và mẹ ông (bà Đàm Thị Mịch) quản lý, sử dụng cho đến nay. Phần đất trên là đất của gia tộc và chỉ cho bà Bùi Thị Xinh (mẹ của bà BĐ_Bùi Thị Bình) 200 m2 để xây nhà ở, cụ thể năm nào không biết. Năm 1999 bà Xinh tự ý đăng ký quyền sử dụng đất và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 2112/99/QSDĐ/TTT ngày 23/01/1999 (651,6m2 thuộc thửa 102, tờ bản đồ số 15, xã TTT, huyện HM, Thành phố HCM). Bà Xinh chết, bà BĐ_Bình là con đăng ký thừa kế, ông NĐ_Nương không đồng ý. Hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã TTT, huyện HM, Thành phố HCM nhưng không thành.


1141/2015/DSPT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1265
  • 57

Tranh chấp thừa kế

14-09-2015
TAND cấp tỉnh

Theo giấy xác nhận ngày 19/12/2005, bà Hoàng xác nhận cho ông BĐ_Hoa được trọn quyền sử dụng căn nhà chứ không được quyền mua bán, thế chấp, cầm cố, tặng cho... Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 865/2003 ngày 11/3/2003 của Ủy ban nhân dân BT; xác định căn nhà nêu trên là di sản của bà Nguyễn Thị Hoàng; và phân chia di sản theo quy định của pháp luật.


76/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1700
  • 47

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

05-03-2014

Nguyên đơn bà NĐ_Đoàn Việt Thư trình bày: Phần đất tranh chấp có diện tích 25.990m2 nằm trong khối di sản 64.361m2 đất tọa lạc tại ấp Lung Tràm, xã KH, huyện TVT, tỉnh CM của mẹ bà là cụ Nguyễn Thị Thình đã được Ủy ban nhân dân huyện TVT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1995. Cha bà là cụ Đoàn Văn Hơn - hi sinh năm 1960, cha mẹ bà có có 5 người con nhưng một người con gái đã hi sinh (không chồng con) còn lại 4 người con là: Bà, ông BĐ_Đoàn Văn Khôi, bà LQ_Đoàn Chi Linh, bà LQ_Đoàn Kim Nga. Năm 2009, cụ Thình chết không để lại di chúc. Toàn bộ phần đất của cụ Thình là 64.361m2 hiện bà đang quản lý sử dụng khoảng 9000m2 đất, còn lại là do anh BĐ_Đoàn Phong Bảo và ông BĐ_Đoàn Văn Khôi quản lý sử dụng. Trên đất có căn nhà tình nghĩa của cụ Thình do anh BĐ_Đoàn Phong Bảo quản lý và 01 căn nhà cũ của cụ Thình do bà sử dụng. Trước đây ông BĐ_Đoàn Văn Khôi và anh BĐ_Đoàn Phong Bảo (cháu ngoại của cụ Thình và là con của bà NĐ_Thư) ở cùng với cụ Thình. Năm 1996, vợ chồng ông BĐ_Khôi ra ở riêng thì bà và các con bà được cụ Thình bảo lãnh cho ở chung. Lúc này cụ Thình ở một mình không ai chăm sóc, nhà cửa hư hỏng, đất chỉ canh tác được khoảng 20 công, nợ thuế nông nghiệp nhiều nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị Nhà nước giữ. Bà có đưa tiền vàng cho cụ Thình cất giữ để sửa nhà, cải tạo đất và đóng thuế.


600/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1632
  • 55

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-12-2013

Theo Đơn khởi kiện ngày 11/10/2011, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/7/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - chị NĐ_Nguyễn Thị Ý trình bày: Chị nhận thừa kế và đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC955293 vói diện tích 4.551,2m2 thuộc thửa số 50 và số AC95294 với diện tích 46m2 thuộc thửa 51 tờ bản đồ số 3, bản đồ địa chính xã PT do ủy ban nhân dân thị xã BT (nay là thành phố BT) cấp ngày 23/6/2005. Phần đất này có nguồn gốc là của cụ Lê Văn Lợi và cụ Nguyễn Thị Chiêm; cụ Lợi và cụ Chiêm cho con là ông Lê Văn Lộ phần đất này, đến năm 1978 thì ông Lộ chết, vợ ông Lộ là bà Trần Thị Đào tiếp tục quản lý, sử dụng. Bà Đào được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994. Chị được bà Đào nhận về làm con nuôi từ năm 1979. Năm 2005 bà Đào chết, có để lại di chúc cho chị được trọn quyền thừa hưởng và sử dụng phần đất này. Trước đó, khi ông Lộ còn sống có cho em ruột là ông Lê Văn Sóc xây nhà trên phần đất này. Sau khi ông Sóc chết thì con ông Sóc là ông BĐ_Lê Văn Thành Sỹ tiếp tục ở. Sau khi bà Đào chết, chị vẫn cho ông BĐ_Sỹ tiếp tục ở mà không có ý kiến gì.