cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

65/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1124
  • 82

Đòi lại nhà cho ở nhờ

12-06-2013

Tại đơn khởi kiện ngày 25/9/2008 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Lưu Hán Mẫn trình bày: Căn nhà số 457/391 A (nay là nhà số 455/10) PVT, phường 7, quận X, thành phố HCM của cố Lý Tường Hương (là bà nội của ông) nhận chuyển nhượng của cụ Trần Nga năm 1958. Năm 1977, cố Hương chết, cụ Lưu Tòng (là cha của bà BĐ_Trang) xin ở nhờ. Năm 2005, cụ Tòng chết, bà BĐ_Trang tiếp tục quản lý, sử dụng nhà, ông đòi nhà nhiêu lân nhưng bà BĐ_Trang không trả, nên ông yêu cầu bà BĐ_Trang và các con của cụ Tòng trả nhà cho ông vì cụ Lương là con duy nhất của cố Hương (cụ Lương sinh tại Trung Quốc nên không có giấy khai sinh và giấy tờ chứng minh cụ Lương là con của cố Hương).


44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1023
  • 28

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và đòi lại nhà cho ở nhờ

24-12-2008

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý


14/2006/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1115
  • 32

Đòi lại nhà cho ở nhờ

09-08-2006
TAND cấp tỉnh

Căn nhà 17 Yersin - NT thuộc sở hữu của vợ chồng ông bà Lương Duy Ủy và NĐ_Nguyễn Thị Kim Thuệ, ông Lương Duy Ủy qua đời từ năm 1968. Bà NĐ_Thuệ tiến hành làm thủ tục thừa kế căn nhà trên, cũng trong thời gian này bà NĐ_Thuệ cho ông Hoàng Hiệu ở nhờ, năm 1972 bà NĐ_Thuệ gửi nhà cho bà Nguyễn Thị Sinh trông coi dùm, cuối năm 1972 bà Sinh tự động cho bà Nguyễn Thị cất ở nhờ một thời gian.


497/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1373
  • 31

Đòi lại nhà cho ở nhờ

30-09-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bà NĐ_Huỳnh Thị Tuyết Sương là nguyên đơn trình bày: Căn nhà 64/27, LQĐ, Phường Y, quận BT thuộc quyền sở hữu của bà theo Hợp đồng cho nhà số 59079 ngày 29/7/1996 có chứng thực của Phòng Công chứng nhà nước Số 1. Năm 1994, bà cho ông BĐ_Huỳnh Thanh Nhăm là em ruột của bà ở nhờ vì lúc này ông BĐ_Nhăm không có nhà ở. Nay, ông BĐ_Nhăm đã có nhà cửa nên nên bà yêu cầu ông BĐ_Nhăm và các con của ông BĐ_Nhăm trả căn nhà trên cho bà trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Vừa qua ông BĐ_Nhăm có yêu cầu bà trả tiền sửa chữa nhà và cũng đã có kết quả kiểm định nên bà đồng ý trả cho ông BĐ_Nhăm số tiền theo như kết quả kiểm định là 40.214.160 đồng, ngay sau khi ông BĐ_Nhăm trả nhà cho bà


428/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1269
  • 31

Đòi lại nhà cho ở nhờ

04-09-2015
TAND cấp huyện

Bà NĐ_Sang làm việc tại Tổng Công ty liên hiệp các Xí nghiệp xây dựng Thủy Lợi 4 thuộc Bộ Thủy Lợi từ năm 1976, đến năm 1988 bà được cấp căn nhà tại số 79/5C 27 NX phường Y, quận BT, Tp. HCM quyết định số 324/QĐ/HĐ ngày 23/3/1988 của Tổng Giám đốc Liên hiệp các Xí nghiệp xây dựng Thủy Lợi 4, về phần diện tích bà không nhớ rõ, sau đó bà đưa chồng và con về ở tại căn nhà này. Đến năm 1995 bà và ông BĐ_Sao ly hôn theo quyết định số 112/TL ngày 19/5/1995 của Tòa án nhân dân quận BT. Sau khi ly hôn, ông BĐ_Sao xin ở lại căn nhà trên và bà đồng ý để cho ông BĐ_Sao ở lại, còn ba mẹ con bà dọn đến nơi khác sinh sống. Sau này bà đã nhiều lần yêu cầu lấy lại nhà để ở và làm “giấy Chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất” nhưng ông BĐ_Sao cứ hẹn năm này qua năm khác không trả lại nhà cho bà. Vì vậy bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Sao phải trả lại căn nhà trên cho bà.