cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

02/2014/KDTM-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 505
  • 14

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

09-01-2014

Ngày 23/5/2008, NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà HN - Chi nhánh Vĩnh Phúc (sau đây viết tắt là NĐ_Ngân hàng) và BĐ_Công ty cổ phần Dược phẩm Kinly (sau đây viết tắt là BĐ_Công ty Kinly) ký Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 08 05VY07/HĐTD. Theo hợp đồng, NĐ_Ngân hàng cho BĐ_Công ty Kinly vay 7.000.000.000 đồng để bổ sung vốn kinh doanh dược phẩm; thời hạn vay 06 tháng; lãi suất được quy định cụ thể tại hợp đồng.


100/2013/GĐT-DS: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1741
  • 109

Tranh chấp thừa kế

12-08-2013

Theo đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993 nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng trình bày: Cha mẹ ông là cụ Vũ Đình Quảng và cụ Nguyễn Thị Thênh sinh được 6 người con là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, ông, bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền) và bà Vũ Thị Hậu. Cụ Quảng và cụ Thênh tạo lập được căn nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, diện tích 123m2. Năm 1979 cụ Quảng chết không để lại di chúc, căn nhà do cụ Thênh và 3 con là ông, bà Hậu, bà Tiến ở; ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm đều xuất cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày 28/10/1982, cụ Thênh và ông, bà Tiến, bà Hậu thỏa thuận tạm thời phân chia nhà thành 3 phần cho ông, bà Hậu và bà Tiến sử dụng. Năm 1987, cụ Thênh chết. Sau đó năm 1989, bà Tiến đã lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh. Khi ông đã có đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày 31/10/1993 bà Hậu đã bán tiếp phần nhà bà Hậu được tạm chia cho bà Hà Thùy Linh.


52/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1283
  • 35

Tranh chấp thừa kế

21-11-2014

Cụ Nguyễn Văn Tròn (chết năm 1990) và cụ Hồng Thị Diệu (chết năm 1976) có 8 người con là ông Nguyễn Văn Bê (chết năm 1965, là cha của anh Tâm), bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị Chơi (có chồng là ông Nguyễn Văn Dũng là bị đơn), bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Văn Quây, bà Nguyễn Thị Nho, bà Nguyễn Thị Quăn (chết năm 1982), ông Nguyễn Văn Em. Hai cụ khai phá được khoảng 800m2 đất tại 20/1 Lương Đình Của, Ấp 4, phường An Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh và đã cất nhà lá trên đất để ở. Năm 1962, ông Bê cất nhà gỗ thay nhà lá để cha mẹ ở. Năm 1985, ông Quây xin cụ Tròn cho vợ chồng bà Chơi cất nhà mái lá 40m2 để ở, nhà số 20/2. Năm 1988, bà A ly hôn về cất nhà vách lá ở tạm diện tích 40m2 đất, chưa có số nhà. Năm 1992, ông Em chuyển nhượng khoảng 150m2 đất cho người khác được 4 cây vàng, đã chia tiền cho các anh chị em. Đất còn khoảng 650m2.


03/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1215
  • 56

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất

09-01-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 30-10-2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lâm Thành Gia và bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, là đại diện theo ủy quyền của ông Gia trình bày: Ngày 15-3-2006, ông Phạm Hồng Thanh và bà Nguyễn Thị Lập ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Gia toàn bộ nhà, đất tại số 21 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000 lượng vàng SJC. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Gia đã trả cho ông Thanh, bà Lập 100 lượng vàng SJC, 500.000.000đ (tương đương với 44,24 lượng vàng SJC) và2.000 USD, việc giao nhận vàng có chữ ký của ông Thanh. Ông Thanh, bà Lập đã sử dụng số tiền này để nộp tiền mua căn nhà số 21 Phùng Khắc Khoan của nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Sau đó, ông Thanh, bà Lập đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng bán nhà cho ông Gia.


143/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2817
  • 124

Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

13-11-2013

Ngày 15/5/2008, bà Văn Anh Muội ký hợp đồng tặng cho bà Văn Anh Kim (là chị gái của bà Muội) nhà, đất tại số 04 Lê Văn Hưu, phường Bến Nghé, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là nhà số 04 Lê Văn Hưu), hợp đồng được công chứng tại Phòng Công chứng số 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do bà Muội tặng cho bà Kim nhà này vì thời điểm đó bà Muội bị bệnh nặng, bác sĩ chẩn đoán là khó có thể sống được, bà Muội không có chồng con; khi đó, bà Kim từ Canada về nói với bà Muội tặng cho bà Kim nhà để phòng ngừa rủi ro, nếu bà Muội không qua khỏi bạo bệnh thì có người đứng ra lo thủ tục giấy tờ; bà Kim chỉ quản lý giùm và hứa không chuyển nhượng cho người khác, nếu bà Muội qua khỏi thì hai bên huỷ hợp đồng tặng cho. Do tin tưởng bà Kim nên bà Muội đã ký kết hợp đồng tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu cho bà Kim. Khi ký hợp đồng tinh thần bà Muội không minh mẫn. Mục đích việc tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu là nếu bà Muội chết thì căn nhà sẽ được chia cho một vài anh chị em. Khi ông Nguyễn Thanh Bình (là chồng của bà Kim) không cho bà Muội ờ nhà số 04 Lê Văn Hưu thì bà Muội mới biết bà Kim đã được sang tên quyền sở hữu nhà.