cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 347
  • 20

Yêu cầu chia thừa kế

17-08-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.


108/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 361
  • 10

Tranh chấp quyền sử dụng đất

22-05-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện ngày 8/3/2002 của ông Lê Văn Thanh (là bố của các nguyên đơn đã chết ngày 1/9/2004) và lời khai của ông Thanh cũng như các thừa kế của ông Thanh trình bày: Năm 1973 ông Thanh có mua một phần đất có diện tích 2.300m2 tại ấp AT A, xã MTA, thị xã BT, tỉnh BT của các đồng thừa kế cùng hàng với bà NĐ_Nguyễn Thị Quốc là vợ của ông Thanh nhượng lại. Trên phần đất này trước đây cha mẹ vợ ông Thanh có cho cụ Đặng Văn Chôm (là cha của ông BĐ_Đặng Văn Đoán) ở nhờ khoảng 200m2, khi ông Chôm chết, ông BĐ_Đoán tiếp tục ở và còn lấn thêm. Ông Thanh đã làm thủ tục đăng ký kê khai và được ủy ban nhân dân tỉnh BT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 1/9/1994 với tổng diện tích là 2.433m2 trong đó có phần diện tích 227.3m2 mà gia đình ông BĐ_Đoán đang sử dụng, ông Thanh đã chết nên các thừa kế của ông Thanh tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm vẫn giữ yêu cầu ông BĐ_Đoán phải trả lại cho các thừa kế phần đất mà ông BĐ_Đoán đang sử dụng.


15/2006/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1654
  • 38

Đòi lại nhà cho ở nhờ

26-12-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền ngày 04/10/2004 và lời khai của người đại diện theo uỷ quyền của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền trình bày: Lô đất đang tranh chấp có nguồn gốc ông Lương Duy Ủy mua của bà Tôn Nữ Thị Phúc, ông Lương Duy Ủy qua đời từ năm 1968. Bà NĐ_Tuyền tiến hành làm thủ tục thừa kế căn nhà trên, cũng trong thời gian này bà NĐ_Tuyền cho ông Hoàng Hiệu ở nhờ, năm 1972 bà NĐ_Tuyền gửi nhà cho bà Nguyễn Thị Sinh trông coi giùm, cuối năm 1972 bà Sinh tự động cho bà Nguyễn Thị Cất ở nhờ một thời gian.


144/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1016
  • 32

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

04-05-2013
Tòa phúc thẩm TANDTC

Phần đất ở và cây lâu năm diện tích 13.140m2 tọa lạc tại ấp Lê Bát, xã CC, huyện PQ do cụ Hoành (Quành) đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 11/12/1993, có nguồn gốc là do cụ Hoành và cụ Ba khai khẩn. Khi cụ Hoành còn sống, gia đình khó khăn nên cụ thế chấp giấy tờ đất cho bà Đỗ Ngọc Hương vay tiền cùng lãi suất tổng cộng là 40 triệu đồng. Năm 2000 sau khi cụ Hoành chết thì bà có họp gia đình thống nhất bán 1.000m2 đất trong tổng diện tích đất trên để trả nợ, lúc này bà BĐ_Hằng đứng trả nợ cho bà Hương và yêu cầu anh chị em trong gia đình giao giấy đất để cho bà BĐ_Hằng đổi từ giấy xanh sang giấy đỏ cho gia đình. Khi chị em thống nhất cho bà BĐ_Hằng làm chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà BĐ_Hằng tự ý cắt 4.000m2 đất cho bà LQ_Lê Thị Hoa, diện tích còn lại thì bà BĐ_Hằng tự ý chuyển sang tên của bà BĐ_Hằng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa đỏ ngày 31/3/2005 mà không được sự thống nhất của các anh chị em.


93/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 745
  • 17

Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

07-04-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/4/2001 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông NĐ_Huỳnh Văn Tân trình bày: Năm 1999, được biết Ban dự án hỗ trợ y tế Quốc gia tỉnh BĐ có tổ chức đấu thầu thi công công trình Trung tâm y tế huyện AN nên ông đã làm đầy đủ các thủ tục tham gia đấu thầu. Do không có tư cách pháp nhân nên ông đã nhờ BĐ_Công ty TNHH Xây dựng Đình Phong (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Đình Phong) có tư cách pháp nhân đứng ra đấu thầu và nhận thầu công trình sau đó giao lại cho ông thi công. Theo thỏa thuận ông là người trực tiếp thi công công trình, tự thuê nhân công, tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm đối với chất lượng công trình… Khi chủ đầu tư chuyển tiền về tài khoản của Công ty thì ông phải nộp cho Công ty các khoản gồm (thuế GTGT: 10%; chi phí điều hành và thuế thu nhập doanh nghiệp: 3% giá trị công trình), số tiền còn lại Công ty sẽ thanh toán cho ông thông qua các phiếu chi của Công ty.