cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

15/2006/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1654
  • 38

Đòi lại nhà cho ở nhờ

26-12-2006
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền ngày 04/10/2004 và lời khai của người đại diện theo uỷ quyền của bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Tuyền trình bày: Lô đất đang tranh chấp có nguồn gốc ông Lương Duy Ủy mua của bà Tôn Nữ Thị Phúc, ông Lương Duy Ủy qua đời từ năm 1968. Bà NĐ_Tuyền tiến hành làm thủ tục thừa kế căn nhà trên, cũng trong thời gian này bà NĐ_Tuyền cho ông Hoàng Hiệu ở nhờ, năm 1972 bà NĐ_Tuyền gửi nhà cho bà Nguyễn Thị Sinh trông coi giùm, cuối năm 1972 bà Sinh tự động cho bà Nguyễn Thị Cất ở nhờ một thời gian.


144/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1015
  • 32

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

04-05-2013
Tòa phúc thẩm TANDTC

Phần đất ở và cây lâu năm diện tích 13.140m2 tọa lạc tại ấp Lê Bát, xã CC, huyện PQ do cụ Hoành (Quành) đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 11/12/1993, có nguồn gốc là do cụ Hoành và cụ Ba khai khẩn. Khi cụ Hoành còn sống, gia đình khó khăn nên cụ thế chấp giấy tờ đất cho bà Đỗ Ngọc Hương vay tiền cùng lãi suất tổng cộng là 40 triệu đồng. Năm 2000 sau khi cụ Hoành chết thì bà có họp gia đình thống nhất bán 1.000m2 đất trong tổng diện tích đất trên để trả nợ, lúc này bà BĐ_Hằng đứng trả nợ cho bà Hương và yêu cầu anh chị em trong gia đình giao giấy đất để cho bà BĐ_Hằng đổi từ giấy xanh sang giấy đỏ cho gia đình. Khi chị em thống nhất cho bà BĐ_Hằng làm chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà BĐ_Hằng tự ý cắt 4.000m2 đất cho bà LQ_Lê Thị Hoa, diện tích còn lại thì bà BĐ_Hằng tự ý chuyển sang tên của bà BĐ_Hằng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa đỏ ngày 31/3/2005 mà không được sự thống nhất của các anh chị em.


93/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 745
  • 17

Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

07-04-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/4/2001 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông NĐ_Huỳnh Văn Tân trình bày: Năm 1999, được biết Ban dự án hỗ trợ y tế Quốc gia tỉnh BĐ có tổ chức đấu thầu thi công công trình Trung tâm y tế huyện AN nên ông đã làm đầy đủ các thủ tục tham gia đấu thầu. Do không có tư cách pháp nhân nên ông đã nhờ BĐ_Công ty TNHH Xây dựng Đình Phong (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Đình Phong) có tư cách pháp nhân đứng ra đấu thầu và nhận thầu công trình sau đó giao lại cho ông thi công. Theo thỏa thuận ông là người trực tiếp thi công công trình, tự thuê nhân công, tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm đối với chất lượng công trình… Khi chủ đầu tư chuyển tiền về tài khoản của Công ty thì ông phải nộp cho Công ty các khoản gồm (thuế GTGT: 10%; chi phí điều hành và thuế thu nhập doanh nghiệp: 3% giá trị công trình), số tiền còn lại Công ty sẽ thanh toán cho ông thông qua các phiếu chi của Công ty.


64/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 387
  • 7

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-02-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

NĐ_Nguyễn Ngọc Phú trình bày: Vào năm 1984 ông mua căn nhà số 167 PTG, phường 2 thành phố MT có chiều rộng là 3,5m, chiều dài 35m, tổng diện tích 367,4m2, diện tích sử dụng là 252m2, lúc này chỉ có cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Đến năm 1995, ông NĐ_Phú xin làm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có tranh chấp. Năm 2004 Ban tư pháp phường 2 có mời hai bên ra hòa giải, ông NĐ_Phú vì muốn tình chòm xóm được vui vẻ nên có thương lượng đồng ý đưa cho chị BĐ_Thư 10 lượng vàng 24K để chị BĐ_Thư xây 1 cái gác và chị BĐ_Thư sẽ trả lại phần phía sau cho ông NĐ_Phú, căn nhà này ông mua của bà Lưu Chấn Định xây dựng trước khi nhà sau của chị BĐ_Thư xây dựng. Nhưng chị BĐ_Thư không đồng ý sự thương lượng đó. Nay ông yêu cầu chị BĐ_Thư trả lại phần đất nhà sau với diện tích là 10,2m2 khi án có hiệu lực, không đền bù khoản tiền nào.


27/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 309
  • 12

Ly hôn

16-01-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Chị Tuyến, anh Hoan kết hôn năm 1992 và có một con chung là cháu Nguyễn Tiến Thành sinh ngày 08/6/1994, do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, nên ngày 20/8/2005 chị Tuyến có đơn xin ly hôn. Chị Tuyến, anh Hoan đồng ý ly hôn và giao con chung cho chị Tuyến nuôi dưỡng. Về tài sản: Chị Tuyến yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng là nhà mái bằng 35,2m2 trên 38,7m2 đất; chia đồ dùng sinh hoạt; chia 120.000.000 đồng là tiền anh Hoan thu nhập khi đi lao động tại Malaixia. Về nợ chung: Vợ chồng có nghĩa vụ trả nợ bà Mộc 1.000USD và 136USD lãi, nợ bà Sinh 6.200.000 đồng, nợ bà Lạc 20.000.000 đồng, nợ anh Tuyên 8.000.000 đồng.