cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

103/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 393
  • 18

Tranh chấp quyền sử dụng đất

05-03-2014

Nguồn gốc phân đất tranh chấp với ông BĐ_Cao Phước Linh là của cha mẹ ông là cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé để lại cho ông thừa hưởng toàn bộ, ông đã được ủy ban nhân dân huyện CT cấp quyền sử dụng đất vào năm 2001 và được cấp đổi lại vào năm 2007 với diện tích 3.132m2. Gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh sử dụng phân đất tranh chấp là do cha mẹ ông cho ở nhờ từ trước năm 1975. Vào năm 2009, đất ông BĐ_Cao Phước Linh bị quy hoạch giải tỏa để mở rộng đường liên xã, ông BĐ_Linh chỉ được nhận phần bồi thường kiến trúc và hoa màu, còn đất là của ông (ông chưa nhận tiền bồi thường đất do đang tranh chấp). Sau quy hoạch gia đình ông BĐ_Linh cất lại nhà trên phần đất của ông mà không hỏi ý kiến của ông. Do ông BĐ_Cao Phước Linh là anh rễ của ông nên ông đồng ý cho gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh được tiếp tục sử dụng phần đất có chiều ngang 5,7m, chiều dài 15,5m, ngoài diện tích này ông BĐ_Cao Phước Linh phải di dời toàn bộ tài sản trả lại đất cho ông. Riêng phần đất có ngôi mộ của bà Phan Thị Nuôi thì ông không tranh chấp.


43/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 224
  • 18

Tranh chấp quyền sử dụng đất

19-02-2014

NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 05/5/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Hoàng Xuân Linh (tức Láy) trình bày: Bố của ông là cụ Hoàng Văn Sông (tử sỹ năm 1946). Sau khi bố ông mất, gia đình ông có hai nhân khẩu là ông và mẹ ông - cụ Hoàng Thị San. Năm 1959, mẹ ông đưa khoảng 20.000m2 đất vào Hợp tác xã Đồng Tiến, xã Thanh Bình, huyện NR, tỉnh BK (nay là xã KL, huyện NR, tỉnh BK). Năm 1960, cụ San chết, năm 1961 ông đi học xa nhà nên toàn bộ đất đai do Hợp tác xã quản lý. Năm 1993, Hợp tác xã nêu trên tự giải thể, ông về nhận lại đất của cụ San, khi đi nhận đất có ông Hoàng Văn Cai là người cùng mẹ khác cha với ông đi cùng, sau đó ông cho ông Cai mượn toàn bộ đất của cụ San nhưng giữa hai người không làm thủ tục, giấy tờ gì.


36/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 458
  • 15

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-01-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 05/10/2005 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Lưu Thị Lương, đại diện theo ủy quyền của bà NĐ_Lương là ông Lưu An Thống trình bày: Năm 1959, cụ Lưu Tấn Quang mua 02 mẫu 98,08 đất tại khóm 7, phường 8, thành phố CM. Khi mua bán có làm giấy và được chính quyền chế độ cũ xác nhận. Năm 1976, cụ Quang đã bán đất cho nhiều người. Năm 1986, Sở Xây dựng quy hoạch nơi này làm Khu công nghiệp trong đó có phần đất còn lại của cụ Quang. Ngày 01/5/1986, cụ Quang đã làm Bảng kê khai để đền bù, có ghi: một nền nhà 63m2; diện tích ao hồ 32m2; đất ruộng 12.960m2; xin lại 1.000m2 trong khu quy hoạch. Sở Xây dựng đền bù 12.960m2 và chấp thuận để lại 1.000m2 cho cụ Quang làm đất thổ cư. Sau khi nhận tiền đền bù xong gia đình về Năm Căn làm ăn, phần đất Sở Xây dựng để lại cụ Quang gửi cụ Lê Thanh Tùng trông coi.


13/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 385
  • 11

Tranh chấp quyền sử dụng đất

20-01-2014

NHẬN THẤY Theo các Đơn khởi kiện ngày 22/12/2010, ngày 13/02/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Nguyễn Thị Bình trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội chồng (cụ Nguyễn Văn Bạn) có diện tích 10 công đất ruộng, sau khi cụ Bạn chết, ông BĐ_Nguyễn Văn Chương (cha chồng bà) quản lý canh tác. Đến năm 1995, ông Nguyễn Văn Xuân (con ông BĐ_Chương) cưới bà làm vợ, bà làm dâu cho gia đình ông BĐ_Chương được 2 năm, gia đình nhà chồng cho vợ chồng bà 3 công đất ruộng, 3 công đất vườn và thổ cư tổng cộng là 6 công, vợ chồng bà trực tiếp canh tác đến năm 2002, do chồng bà là ông Xuân bị bệnh chết nên bà có cố lại cho cha mẹ chồng 02 công đất ruộng bằng 10 chỉ vàng 24k, nhưng không làm giấy tờ, đến năm 2004 thì bà chuộc lại và trực tiếp canh tác được một năm.


521/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 948
  • 15

Tranh chấp quyền sử dụng đất

17-12-2014

Bố mẹ bà có 1501m2 đất tại khu liên minh, phường MP, thành phố VT, tỉnh PT, nên đã cho hai chị em bà diện tích đất trên. Trong đó bà được hưởng là 781m2 đã được UBND thành phố VT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 705355 ngày 07/04/2005 thửa đất số 232-1, tờ bản đồ số 10, mảnh đất này giáp ranh với hộ bà Đào Thị Quy có chiều dài là 25m, một chiều giáp đường giao thông xóm 25m, chiều rộng phía trên giáp đường 23,6m (thiếu l,4m). Diện tích thực tế còn lại của bà là 683,04m2, bị thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 97,96m2. Bà cho rằng phần diện tích còn thiếu như trên do hộ bà BĐ_Đan lấn chiếm khoảng 70m2, còn khoảng 30m2 do Nhà nước lấy làm đường giao thông. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Đan phải trả phần diện tích đất đã lấn chiếm như trên. Phần cây lâm lộc trên diện tích đất (sấp sỉ 70m2) bà chấp nhận cho hộ bà BĐ_Đan thu hoạch.