cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

83/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 184
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-07-2006
TAND cấp tỉnh

Trong đơn khởi kiện ngày 25/02/2005 (Bổ sung 21/10/2005), và các lời khai tiếp theo đại diện nguyên đơn bà Bùi Thị Vân trình bày như sau: Nguồn gốc diện tích đất 1.512 m2 tọa lạc tại xã AN, huyện LĐ, tỉnh BR - VT, gồm các thửa 400, 401, 406, 407, 408, 409, 410, 419 tờ bản đồ số 12 là của ông Trần Văn Tuổng (Cha ông NĐ_Trần Văn Tại) khai phá và được chế độ cũ công nhận vào năm 1974; đến năm 1995, ông Tuổng làm giấy cho ông NĐ_Tại, ông NĐ_Tại đã làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1997, 2000, 2003. Diện tích đất này trước đây trồng lúa, từ năm 1998 đến nay không sử dụng do bị nhiễm mặn và không có nước. Hiện nay ông BĐ_Hồng đã lấn chiếm trồng hoa màu và cắm cọc làm ranh. Nay bà Vân yêu cầu ông BĐ_Hồng trả lại diện tích đất trên cho ông NĐ_Tại.


182/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 207
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

15-06-2006
TAND cấp tỉnh

Tại Bản tự khai ngày 10/06/2005, 26/09/2005 và ngày 25/11/2005 và các Biên bản hòa giải ngày 29/09/2005, 26/10/2005 và ngày 15/11/2005 nguyên đơn bà Huỳnh Thị Anh Đào yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là trị giá nền đất thổ cư thuộc lô 1A3 đường HV có giá trị 600.600.000đ mà vợ chồng được nhận thuộc diện tái định cư theo quyết định số 207 ngày 25/08/2004 của Ủy Ban nhân dân Thành phố LX, về số tiền 61.648.000đ được hỗ trợ di dời hiện ông Tín giữ. Bà yêu cầu tài sản này phải chia đôi, bà xin nhận hiện vật. Bà xác định tiền đóng lô 1A3 cho Ủy ban nhân dân thành phố LX là 91.520.000đ. Về nợ chung: Bà xác định vợ chồng chỉ có nợ ông Long là 2.600.000đ còn các khoản nợ khác bà không thừa nhận.


98/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 228
  • 8

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-08-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn vợ chồng ông NĐ_Dương Văn Long bà NĐ_Trần Thị Thủy trình bày: Nguồn gốc 764m2 thuộc thửa 287 tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại xã PT, huyện XM, tỉnh BR - VT là một phần đất trong tổng diện tích khoảng 3,5 mẫu của cha mẹ ông NĐ_Long để lại cho ông NĐ_Dương Văn Long. Mặc dù vợ chồng ông NĐ_Long vẫn sử dụng đất, nhưng do sơ xuất khi đăng ký kê khai làm thủ tục hợp thức hóa quyền sử dụng đất, nên năm 1997 ông NĐ_Long được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 32.925m2. Vợ chồng ông BĐ_Huỳnh Minh Hùng bà BĐ_Ngô Thị Ngân là người có đất liền kề với đất của vợ chồng ông NĐ_Long đã đăng ký kê khai phần diện tích ông bà kê khai bị thiếu, hiện nay qua đo đạc xác định được phần diện tích đất này là 764m2 thuộc thửa 287 nay là thửa 547, tờ bản đồ số 08, xã PT. Do vợ chồng ông BĐ_Hùng đã chuyển nhượng diện tích đất này cho ông LQ_Nguyên Văn Soa, nên vợ chồng ông NĐ_Long có yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hùng phải trả cho ông bà diện tích đất này.


92/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 188
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-08-2009
TAND cấp tỉnh

Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Hằng và ông BĐ_Trần Văn Linh là cháu, gọi ông NĐ_Hùng, bà NĐ_Thu là cậu mợ. Năm 1986, vợ chồng ông NĐ_Hùng thấy vợ chồng ông BĐ_Linh không có chỗ ở nên vợ chồng ông NĐ_Hùng cho vợ chồng ông BĐ_Linh cất nhà lá, vách ván, mái tole ở nhờ trên đất ngang 4,5m, dài 8m toạ lạc tại khu phố HĐ, thị trấn LH, huyện LĐ. Hai bên không làm giấy tờ cho ở nhờ nhưng có thoả thuận miệng khi nào vợ chồng ông BĐ_Linh có tiền mua đất thì trả lại đất cho vợ chồng ông NĐ_Hùng. Đến năm 1988, vợ chồng ông BĐ_Linh xin phá bỏ nhà lá cất nhà cấp 4 vì mưa hay dột, vợ chồng ông NĐ_Hùng đồng ý. Cách đây 3-4 năm, vợ chồng ông BĐ_Linh tự ý kêu thợ xây cất thêm chiều dài 6m không hỏi ý kiến vợ chồng ông NĐ_Hùng. Nay vợ chồng ông NĐ_Hùng không cho vợ chồng ông BĐ_Linh ở nữa, yêu cầu trả lại đất, đồng ý hoàn trả lại giá trị nhà theo quy định Nhà nước.


89/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 185
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

14-08-2009
TAND cấp tỉnh

Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất, bà BĐ_Miển trình bày như sau: Vào năm 1965, bà BĐ_Miển và ông LQ_Cởn mua của ông Lê Văn Dương và bà Đào Thị Hai diện tích đất nêu trên và 01 căn nhà (bà BĐ_Miển, ông LQ_Cởn đang sử dụng nhà). Đây là nhà đất mà ông Lê Văn Tải chia cho ông Dương. Tại thời điểm ông Dương được chia nhà đất, thì ông Lê Văn Đẩu (anh ông Dương) cũng được ông Lê Văn Tải chia cho nhà và đất. Sau khi ông Đẩu qua đời, đến năm 1977, bà Dư Thị Giàu chia đất mà ông Đẩu được hưởng nêu trên làm hai phần cho ông LQ_Cởn và ông BĐ_Dũng, mỗi người một phần. Khi bà Giàu chia đất cho ông LQ_Cởn, ông BĐ_Dũng thì bà Giàu đã lấy đất mà vợ chồng bà BĐ_Miển mua của ông Dương (phần đất tranh chấp) để chia, bà BĐ_Miển không chấp nhận, đã khiếu nại tại Ủy ban nhân dân xã Phước Long Thọ. Kết quả giải quyết thì phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà BĐ_Miển. Năm 1981, bà BĐ_Miển giao diện tích nêu trên cho bà Giàu sử dụng. Năm 1992, bà Giàu chết, ông BĐ_Dũng tiếp tục sử dụng. Vào năm 2008, Ủy ban nhân dân huyện ĐĐ đã thu hồi một phần diện tích đất tranh chấp là 515m2 để cải tạo nâng cấp Tỉnh lộ 52. Diện tích đất còn lại là 65m2.