cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

38/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 234
  • 9

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

28-11-2008

Bà NĐ_Chánh và ông Phạm Văn Thiết có 05 người con gồm: Phạm Văn Sa, Phạm Văn Sâm, LQ_Phạm Thị Nhi, LQ_Phạm Thị Ninh, Phạm Văn Thân (hy sinh năm 1985). Năm 1962 do chính sách dồn dân lập ấp chiến lược, gia đình bà NĐ_Chánh và ông Thiết được cấp một nền gò nhà tại số 16/2 ấp 1, xã Phú Mỹ, huyện Nhà Bè (nay là số nhà 10/1A, khu phố 2, HTP, phường PN, quận X, thành phố HCM) có khuôn viên ngang 24,5m, dài khoảng 30m. Bà NĐ_Chánh và ông Thiết đã tạo dựng một căn nhà mái tole, cột gỗ, nền đất có diện tích 32m2 trên nền gò 312m2, xung quanh còn lại là ao vũng. Năm 1963 ông Thiết chết, bà NĐ_Chánh cùng các con tiếp tục sử dụng nhà đất trên. Năm 1977 bà NĐ_Chánh có đăng ký kê khai nhà đất, năm 1984 kê khai theo chỉ thị 299/TTg và đến năm 1999 tiếp tục đăng ký theo chỉ thị chung.


17/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1567
  • 28

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

05-07-2006

Cuối năm 1979, bà đã giao dịch với bà Đặng Thị Nga để mua nhà 72 phố Lò Đúc, nhưng do bà không đủ tiền mua toàn bộ tầng 1, nên đã rủ bà LQ_Vũ Thị Luyến là mẹ chị BĐ_Lê Thị Sóng mua chung, giá nhà là 7.500đ, mỗi bên 1/2 là 3.750đ và 1/2 tiền thuế là 750đ, bà đã đưa số tiền đó cho bà Nga tại 31 phố BT. Sau đó bà đã đi làm thủ tục sang tên trước bạ và chuyển đồ đạc đến ở 72 phố Lò Đúc vào ngày 26/5/1980; tháng 8/1980 khi bà đi vắng, chị BĐ_Sóng đã phá khoá cửa nhà bỏ đồ của bà ra ngoài.


15/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 649
  • 10

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

06-06-2006

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Ngô Thị Hạnh trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23/11/1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là LQ_Trần Thanh Hoành, LQ_Hàng Lưu Sáng và một con nuôi là LQ_Hàng Huệ Lan; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 NCT, phường X, quận M, thành phố HCM) của ông Trương Văn Bền để ở. Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận M (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05/11/1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua đứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà.


12/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1532
  • 17

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

05-06-2006

Căn nhà lợp ngói có diện tích 80m2 (dài 20m ngang 4m) là của vợ chồng ông (NĐ_Tăng Thành Tú) và bà Nguyễn Thị Diệp. (Theo tờ bán đứt căn nhà đề ngày 16/8/1974 thì bà Diệp là người đứng tên mua nhà của vợ chồng bà Huỳnh Thị Ba và ông Lữ Thăng). Sau khi mua vợ chồng ông cho con gái là Tăng Thị Nâu ở và quản lý sử dụng. Năm 1976 vợ chồng ông cho Hợp tác xã PM mượn, năm 1977 Hợp tác xã trả nhà và ông bà giao cho chị Nâu tiếp tục sử dụng. Từ năm 1982 vợ chồng anh BĐ_Lộc về ở cùng chị Nâu, đến năm 1985 chị Nâu đi ở nơi khác thì vợ chồng anh BĐ_Lộc ở và quản lý sử dụng căn nhà này.


09/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 572
  • 6

Tranh chấp quyền sở hữu tài sản

09-05-2006

Căn nhà 72 đường PBC (nay là 90 ĐLHV) thị xã QN, tỉnh QN thuộc quyền sở hữu của cụ Huỳnh Cháu và vợ là cụ Bùi Thị Sửu. Cụ Cháu, cụ Sửu chết không có di chúc nên ngôi nhà nói trên thuộc quyền sở hữu của 4 người con là các bà Huỳnh Thị Phương Liên, Huỳnh Thị Hương, Huỳnh Thị Tư và ông Huỳnh Văn Phú. Ngày 04/5/1992, bà Liên, ông Phú, bà Tư, bà Hương đã đồng ý ký giấy bán nhà cho bà tại Uỷ ban nhân dân phường với trị giá ghi trong giấy tờ là 10.000.000đ, (thực tế là 6,5 lạng vàng) bà đã đặt cọc cho bà Liên 2 chỉ vàng. Sau khi ký nhận giấy tờ nhà xong, ngày 20/6/1992 (âm lịch), bà Liên giao nhà và ngày 18/12 bà dọn đến ở.