cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

55/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2694
  • 107

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

01-02-2010

Ngày 24/11/2006 hai bên ký hợp đồng mua bán nhà với giá là 28,2 tỷ đồng. Cùng ngày. BĐ_Công ty Duy Anh đưa trước cho ông 5 tỷ đồng và ký luôn biên bản giao nhà và đồng ý cho vợ chồng ông được tạm ở lại 60 ngày. Sau đó, ông thương lượng với ông Tọa giám đốc BĐ_Công ty Duy Anh là hủy bỏ hợp đồng mua bán căn nhà trên, ông sẽ trả lại 05 tỷ và lãi suất nợ quá hạn cho BĐ_Công ty Duy Anh nhưng ông Tọa yêu câu ông phải bồi thường gấp đôi là 10 tỷ đồng, ông không chấp nhận. Tháng 12-2006 Ngân hàng thông báo BĐ_Công ty Duy Anh đã nộp tiền mua nhà vào tài khoản của Ngân hàng, khấu trừ 5 tỷ đồng mà vợ chồng ông đã nhận và các khoản chi phí khác, số tiền còn lại Ngân hàng sẽ khấu trừ khoản nợ vay của Công ty Quế Lâm, còn lại khoản hơn 4 tỷ đồng chuyển vào tài khoản cho ông và mời ông ký để hủy hợp đồng vay, nhưng ông không đống ý.


44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 191
  • 6

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

24-12-2008

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý


22/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 187
  • 11

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

07-09-2006

Căn nhà toạ lạc tại số 177 đường TBH, phường Lê Lợi, thành phố QN, tỉnh BĐ có diện tích 107m2 thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông BĐ_Lê Tạo và bà Tôn Thị Tằng. Ngày 28/9/1978 ông BĐ_Lê Tạo đã ký vào bản kê khai chi tiết căn nhà trên khi thực hiện chính sách cải tạo nhà của thị xã QN. Ngày 3/8/1979 ông BĐ_Lê Tạo lập văn tự bán căn nhà số 177 TBH cho ông NĐ_Trần Tế với giá 8.000 đồng, ông NĐ_Tế đã giao cho ông Thảo 6.000 đồng, gia đình ông NĐ_Tế đã chuyển về ở một phần trong căn nhà. Ngày 8/10/1979 Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghĩa Bình ban hành Quyết định số 882/QĐ-UB quản lý căn nhà trên. Ngày 30/9/1980 Uỷ ban nhân dân phường Lê Lợi lại chứng thực vào văn tự mua bán nhà giữa ông NĐ_Trần Tế với ông BĐ_Lê Tạo.


10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 378
  • 4

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

11-05-2006

Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay. Tuy nhà đất thuộc sở hữu chung của cụ Kiềm và các nguyên đơn, nhưng do cụ Kiềm hoàn cảnh khó khăn nên các nguyên đơn để cho cụ Kiềm thu tiền thuê nhà sử dụng chi tiêu hàng tháng.


25/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1293
  • 39

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

29-01-2013

Theo đơn khởi kiện ngày 06/7/2002 và trong quá trình tố tụng, bà NĐ_Đỗ Thị Lan trình bày: Bà là công nhân xí nghiệp dịch vụ đời sống, Công ty Gang thép TN, năm 1991 gia đình bà được Công ty thanh lý cho 02 gian nhà ở cấp 4 của Xí nghiệp trên diện tích đất hơn 200m2 và sử dụng từ đó đến năm 2002. Do vợ chồng bà có mâu thuẫn nên bà có viết giấy ủy quyền cho chồng là ông Bùi Văn Cáp sử dụng trông coi và trong giấy không có ủy quyền bán nhà. Sau đó bà cùng hai con về bên bố mẹ đẻ bà ở. Lợi dụng lúc bà đi vắng ông Cáp đã lấy giấy tờ của bà tự ý bán 02 gian nhà thanh lý cho vợ chồng ông BĐ_Sính và bà Nguyện, sau đó ông Cáp bỏ về quê sinh sống và chết ngày 31/01/2003. Nay bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Sính và bà LQ_Vũ phải trả lại 02 gian nhà và không nhất trí trả số tiền mà ông Cáp đã nhận của vợ chồng ông BĐ_Sính, vì bà cho rằng ông Cáp nhận tiền thì phải tự chịu trách nhiệm.