cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 947
  • 26

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

11-06-2013

Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sinh, cụ Nguyễn Thị Hoa (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2 trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn Ên (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mã) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ Ên sửa chữa lại. Sau đó cụ Ên sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mã quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mã đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mã không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mã trả lại nhà, đất cho bà.


452/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 352
  • 13

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

21-11-2014

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/6/2010 và trong quá trình tố tụng, đồng nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Thắng, bà NĐ_Đinh Thị Lan trình bày: Ông, bà khởi kiện yêu cầu chị BĐ_Đàm Thị Viên trả lại 11.742,4m2 đất và nhà ở tại thửa đất số 41 và 51 tờ bản đồ số 01 xã TĐ, thị xã ĐH, tỉnh QB. Nguồn gốc của phần đất này trước đây là đất rừng tái sinh thuộc quyền quản lý của UBND xã Bắc Lý; năm 1998 khi thành lập xã TĐ thì thuộc quyền quản lý của UBND xã TĐ; từ năm 1994 ông, bà cùng một số gia đình khác đã đăng ký xin UBND phường Bắc Lý để canh tác trên diện tích đất này, năm 2004 UBND thị xã ĐH (nay là thành phố ĐH) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất nêu trên cho ông, bà. Năm 1998, vợ chồng ông, bà khởi công xây dựng ngôi nhà đang tranh chấp hiện nay, quá trình làm nhà được làm nhiều lần, nhiều công đoạn và nhiều đoàn thợ khác nhau. Chị BĐ_Viên là vợ của anh Nguyễn Văn Nghị (con của ông, bà) nhưng không có đăng ký kết hôn, hiện chị BĐ_Viên và anh Nghị đã có 01 cháu gái là Nguyễn Thị Thảo (sinh năm 1997). Năm 2001 anh Nghị chết, sau đó vợ chồng ông tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà trên; đến năm 2003 ông, bà bán nhà cũ và ra ở với chị BĐ_Viên và cháu Thảo trong ngôi nhà nêu trên. Năm 2006, chị BĐ_Viên đi Miền Nam làm ăn, năm 2008 mới quay về. Do chị BĐ_Viên đòi đuổi ông, bà ra khỏi ngôi nhà nêu trên, nên ông, bà khởi kiện đề nghị công nhận quyền sở hữu nhà và đất nêu trên cho ông, bà.


40/2014/GĐT-DS Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 920
  • 25

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

09-10-2014

Căn nhà số 319 NTL, phường 13, quận BT diện tích 369,86m2 nằm trong khuôn viên 1356m2 đất do cụ Âu Ngọc và cụ Phù Cải (cha, mẹ của bà) mua năm 1967. Ngày 04/01/1993 cụ Ngọc, cụ Cải chuyển nhượng cho Công ty Xuất nhập khẩu, sản xuất, dịch vụ và đầu tư quận 1, thành phố HCM (Sunimex) căn nhà trên khuôn viên 1.540m2 đất (22m X 70m). Phần chái bên phải của căn nhà có diện tích 280m2 (4m X 70m) các cụ giữ lại để làm nhà ở. Do cụ Cải bị bệnh phải về nhà bà LQ_Âu Mẫn (số 15/8 ấp Trung Tre, xã LX, quận TĐ) để ở và chữa bệnh, nên phần chái nhà nêu trên các cụ giao cho bà LQ_Âu Mỵ, ông Nguyễn Văn Đan (con gái và con rể) ở. Năm 1994, khi bà LQ_Mỵ, ông Đan sang Mỹ định cư, bà BĐ_Miên, ông Thái mượn diện tích đất này làm lối đi với lý do lối đi phía đường ray xe lửa (nay là hẻm số 318 Nguyễn Xí, phường 13, quận BT) đã bị chủ đất bịt lại, sau đó bà BĐ_Miên, ông Thái tự ý làm chủ quyền nhà đứng tên ông Thái, bà BĐ_Miên. Khi biết được việc này, cụ Ngọc đã khiếu nại với ủy ban nhân dân phường 13, quận BT, nhưng cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Năm 1995, cụ Cải chết không để lại di chúc. Năm 2000, cụ Ngọc chết có di chúc để lại diện tích nhà, đất 280m2 (4m X 70m) tại số 319 đường NTL, phường 13, quận BT cho bà được hưởng, nên bà yêu cầu bà BĐ_Miên và các con của bà BĐ_Miên trả lại diện tích nhà, đất nêu trên cho các thừa kế của cụ Ngọc, cụ Cải.


37/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 351
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

18-08-2014

Nhà đất tranh chấp có chiều ngang mặt đường TP là 11,20m, dài theo hẻm 7 HT là 25,6m, nên có thể chia bằng hiện vật được. Hơn nữa, nguyên đơn yêu cầu nhận lại nhà. Đồng thời kết quả xác minh ngày 26/6/2014 về nhà ở của phía nguyên đơn thấy rằng hiện nay cụ Hiếu (vợ của cụ NĐ_Nhất) không có nhà ở LQ_Oán định nên phải đi ở nhờ các con; còn ông Giang (con của vợ chồng cụ NĐ_Nhất) vẫn ở nhờ nhà vợ. Như vậy, phía nguyên đơn đang có nhu cầu về nhà ở. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại chia cho những người thừa kế của cụ NĐ_Nhất nhận giá trị là không đúng với qui định tại Khoản 2 Điều 685 Bộ luật dân sự và bảo đảm quyền lợi của những người này


142/2012/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 368
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

12-04-2012
Tòa phúc thẩm TANDTC