cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

122/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 417
  • 5

Tranh chấp hợp đồng vay vốn đầu tư trồng và chăm sóc cao su

24-09-2008
TAND cấp tỉnh

Năm 1990 ông Phan Đình Nghị (chồng bà BĐ_Hiền) ký hợp đồng vay vốn của Nông trường cao su CB - NĐ_Công ty cao su ĐL để đầu tư trồng và chăm sóc 43,6 ha cao su. Sau khi ký hợp đồng. Nông trường đã đầu tư vốn đầy đủ theo thỏa thuận của hợp đồng. Đến ngày 10-5-1996 Nông trường và ông Nghị ký hợp đồng số 01 thay thế hợp đồng năm 1990 với nội dung Nông trường cho ông Nghị vay vốn dài hạn trồng và chăm sóc 43,6 ha cao su và nghĩa vụ của ông Nghị trả vốn và lãi suất hàng năm bằng mủ cao su khô loại 1. Năm 2003 ông Nghị chết, nên ngày 22- 02-2003 Nông trường cao su CB đã ký lại hợp đồng với bà BĐ_Phan Thị Kim Hiền là người kế thừa hợp đồng của ông Nghị. Nội dung hợp đồng ký với bà BĐ_Hiền y như nội dung hợp đồng của ông Nghị năm 1996.


57/2008/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 233
  • 2

Ly hôn

11-08-2008
TAND cấp tỉnh

Theo án sơ thẩm, nguyên đơn chị NĐ_Nguyễn Ngọc Linh trình bày: Chị và anh BĐ_Dương Hoàng Luân cưới nhau năm 2000, có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh BĐ_Luân không chăm lo cuộc sống của chị và con chung. Khi chị sinh đứa con thứ 2 thì anh BĐ_Dương Hoàng Luân có quan hệ với người phụ nữ khác, về nhà kiếm chuyện chửi mắng chị. Từ đó, vợ ông sống ly thân cho đến nay, anh BĐ_Luân không lần nào đến thăm chị và các con. - Nay về tình cảm: Chị xin được ly hôn với anh BĐ_Luân. - Về con chung: Có 02 con chung tên Dương Ngọc Trinh, sinh năm: 2001 và Dương Ngọc Trân, sinh năm: 2003, hiện chị đang nuôi 02 con chung. Khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi 02 con và không yêu cầu anh BĐ_Luân cấp dưỡng nuôi con.


102/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1225
  • 5

Tranh chấp hợp đồng mua bán thịt heo

05-08-2008
TAND cấp tỉnh

Vợ, chồng ông NĐ_Sơn, bà NĐ_Linh là chủ lò mổ heo. Vợ, chồng ông BĐ_Quý, bà BĐ_Loan là khách hàng thường xuyên mua thịt heo của vợ, chồng ông NĐ_Sơn để bán. Năm 2005 và 2006, ông BĐ_Quý có lấy thịt heo của vợ, chồng ông NĐ_Sơn để bán, sau đó ông BĐ_Quý không lấy nữa. Từ ngày 16/12/2007, ông BĐ_Quý và bà BĐ_Loan lại lấy hàng thịt heo của ông NĐ_Sơn, bà NĐ_Linh để bán. Việc thanh toán giữa hai bên được thực hiện thông qua việc ghi sổ. Cụ thể, ông NĐ_Sơn mua 2 cuốn số, ông NĐ_Sơn giữ một cuốn, ông BĐ_Quý giữ một cuốn. Ông NĐ_Sơn là người ghi chép số lượng thịt đã giao và số tiền đã trả hàng ngày vào 2 cuốn sổ. Khi ông BĐ_Quý trả tiền thì ông BĐ_Quý đưa sô của mình cho ông NĐ_Sơn và ông NĐ_Sơn ghi số tiền đã trả vào sổ của ông NĐ_Sơn và sổ của ông BĐ_Quý. Việc ghi sổ không được hai bên ký nhận vì tin tưởng nhau.


21/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2152
  • 89

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

23-06-2008
TAND cấp tỉnh

Theo ông NĐ_Bùi Văn Vinh trình bày: ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Mộng kết hôn và chung sống từ năm 1985, ông bà có hai người con chung và có tài sản sản chung là căn nhà 8ố: 542 đường số 25 (NTT), khu phố CXM, thị trấn KL, huyện KL, KG. về căn nhà tuy là tài sản chung nhưng công sức đóng góp tạo dựng phần của ông là chính, vì ông làm trong công ty xi măng Hà Tiên II đã hơn 25 năm, được công ty bán hóa giá và tiền bạc ông đóng góp nhiều hơn vợ để mua căn nhà. Nay ông yêu cầu chia trị giá căn nhà làm ba phần ông hưởng hai phần và bà BĐ_Mộng một phần. Trị giá căn nhà thỏa thuận là 233.910.245đ, ngoài ra trong quá trình chung sống vợ ông có nợ bà LQ_Đình số tiền 168.672.500đ và 1.950 USD, ông xác nhận vợ ông có nợ bà LQ_Đình và ông dự định hỗ trợ tiếp với vợ ông trả nợ cho bà LQ_Đình nhưng bà LQ_Đình lại yêu cầu buộc vợ chồng ông trả nợ quá khắt khe (không thương lượng thỏa thuận được), nên ông yêu cầu chia tài sản chung để vợ ông có phần tiền riêng trả nợ cho bà LQ_Đình.


60/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 661
  • 10

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

10-06-2008
TAND cấp tỉnh

Diện tích đất tại số 45 đường PXH, thành phố QN nằm trong thửa đất thổ cư có trích lục cũ số 87, chứng thư kiến điền 43 mang tên Tạ Ngân, ông Tạ Ngân chết để lại cho ông Tạ Đăng. Năm 1956 ông Tạ Đăng bà Trần Thị Nhược (là cha mẹ của nguyên đơn) xây dựng một ngôi nhà hai căn có diện tích 56m2. nằm trên diện tích đất 135m2, năm 1988 ngôi nhà này có số 03 đường LL, thị xã QN (nay đổi thành số 45 đường PXH, thành phố QN). Cấu trúc nhà mái lợp tol, nền xi măng, xây nhà xong gia đình các ông, bà ở một thời gian, sau đó cho bà Nguyễn Thị Lan thuê để ở, bà lê Thị Quýt tiếp tục thuê nhà cho cha, mẹ và các ông bà. Gia đình các ông bà (nhiều lần yêu cầu bà Lê Thị Quýt trả lại nhà, nhưng bà Lê Thị Quýt không trả, năm 1996 Ủy ban nhân dân phường THĐ tiến hành hòa giải việc tranh chấp giữa hai bên ; ông Tạ Đăng với bà Lê thị Quýt có thỏa thùận thống nhất đến ngày 30-4-1996 bà Lê Thị Quýt sẽ trả cho ông Tạ Đăng 20 (hai mươi) lượng vàng 24K, ông Tạ Đăng sẽ làm thủ tục chuyển nhượng nhà cho bà Lê Thị Quýt, nếu quá thời hạn này hai bên không thực hiện, ủy ban nhân dân phường sẽ chuyển hồ sơ lên Tòa án nhân dân giải quyết. Đến hạn bà Lê Thị Quýt không thực hiện, nên Ủy ban nhân dân phường THĐ chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân thị xã QN (nay là Tòa án nhân dân thành phố QN) giải quyết