cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

07/2014/HC- ST Sơ thẩm Hành chính

  • 242
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

22-04-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2011 và tại người khởi kiện ông NĐ_Võ Thành Mộc trình bày: Nguồn gốc phần đất có diện tích 532,9m2 thuộc một phần thửa số 176 tọa lạc tại phường LĐ, quận TĐ, theo bản đồ dự án đường Tân Sơn Nhất- Bình Lợi-Vành đai do trung tâm đo đạc bản đồ lập ngày 27/9/2007 được Sở tài Nguyên và môi trường duyệt ngày 05/11/2007 là của mẹ ông bà Phạm Thị Nhung mua năm 1972 của ông Trần Văn Nam bằng giấy tay, cha ông, là ông Võ Văn Mạnh (chết năm 1991) cha, mẹ ông có tất cả những người con chung gồm: ông LQ_Phạm Văn Mùi, ông LQ_Võ Đức Thảo, ông LQ_Võ Văn Mứt, bà LQ_Võ Thị Sáo, bà LQ_Võ Thị Kiều Dương, ông LQ_Võ Thanh Dũng, bà LQ_Võ Thị Kiều Linh, bà LQ_Võ Thị Thanh Hạ và bà LQ_Võ Thị Thanh Thoa.


07/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 240
  • 12

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư

21-04-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, biên bản đối thoại, người khởi kiện ông NĐ_Lê Văn Được trình bày: ông Lê Văn Mới và bà Huỳnh Thị Thức chung sống có các con gồm: Ông NĐ_Lê Văn Được, bà Lê Thị Thơ, bà Lê Thị Tám, bà Lê Thị Yến và bà Lê Thị Bảy. Lúc cha mẹ của bà còn sống có tạo dựng một căn nhà ở và đất diện tích là 819,52m2 để lại và ông có đăng ký quyền sử dụng đất ở ngày 6/8/1999 với toàn bộ diện tích đất ở là 819,52m2 theo Quyết định số 3376/QĐ - UBND ngày 11/6/1999 của Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM (UBND Thành phố HCM). Trong diện tích này ông sử dụng 419,7m2 là một phần thừa kế do cha mẹ để lại tọa lạc tại số 406/17 Tổ 19, Khu phố 2, Phường ALĐ, Quận X, Thành phố HCM. Theo họa đồ hiện trạng lập ngày 18/5/2008 do Công ty đo đạc và công trình đo vẽ và văn bản số 14766/VPĐK-KT ngày 18/10/2011 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Thành phố theo Chỉ thị số 229/TTg thì toàn bộ diện tích 419,7m2 thuộc các thửa đất số 752, 753, 696 đã được đăng ký với mục đích sử dụng là đất thổ cư (T). Căn cứ vào Quyết định số 499/QĐ- ĐC ngày 27/7/1995 của Tổng cục trưởng Tổng cục địa chính và Thông tư số 1990/2001/TT-TTĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính quy định ký hiệu quy ước ghi trong sổ địa chính thì đất chữ “T” được xác định là đất ở.


06/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 216
  • 13

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

16-04-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện ông NĐ_Trần Hữu Phước có ông Trần Văn Quân làm đại diện trình bày: Cha ông là ông NĐ_Trần Hữu Phước là chủ sở hữu của căn nhà và đất số 171 (số cũ 658) xa lộ Hà Nội, phường TĐ, quận X bị thu hồi để thực hiện dự án xa lộ Hà Nội giai đoạn 2. Căn nhà này gia đình ông sử dụng từ trước năm 1975, đến năm 1975 bán lại cho ông Nguyễn Văn Bôi, sau đó ông Bôi để lại cho con là Nguyễn Bình Minh sử dụng, ngày 06/12/1990, ông Minh chuyển nhượng toàn bộ nhà đất trên cho ông Đỗ Văn Tiến và bà Nguyễn Thị Tuyết Mai năm 1992 thì bà Mai ông Tiến bán lại cho cha mẹ ông là ông NĐ_Trần Hữu Phước và Nguyễn Thị Trường sử dụng. Năm 2004 ông NĐ_Phước bà Trường ly hôn thì ông NĐ_Phước được phân chia toàn bộ nhà và đất nêu trên.


05/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 843
  • 21

Khởi kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và cưỡng chế thu hồi đất

04-04-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Văn Bội, bà NĐ_Bùi Thị Huệ có ông NĐ_Bội làm đại diện trình bày: Gia đình ông đã cư trú tại phường TML, Quận X từ rất lâu. Năm 2010 ông được mời hiệp thương để thông báo phần đất diện tích khoảng 240 m2 trong đó có 230 m2 thuộc một phần thửa 81 – 82 được ông mua lại của bà Nguyễn Thị Mắc năm 2000, phần đất còn lại l đất của ông sử dụng ổn định từ trước năm 1975 bị thu hồi để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2, ngày 19/7/2010 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 10402/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư đối với phần đất này và xác định phần đất của ông thuộc dự án 174ha. Không đồng ý với quyết định bồi thường ông đã khiếu nại đến chủ tịch BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, trong khi ông khiếu nại thì ngày 03/12/2010 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 15776/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với phần đất của gia đình ông, ngày 21/3/2011 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 3533/UB-UBND ngày 21/3/2011 sửa đổi một phần nội dung quyết định số 10402/QĐ-UBND, ngày 04/5/2011 ban hành quyết định số 5635/QĐ-UBND về việc hủy bỏ quyết định số 3533/QĐ-UBND, sửa đổi một phần nội dung của quyết định 10402/QĐ-UBND nhưng ngày 15/01/2014 mới bàn giao cho ông.


04/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 447
  • 11

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

27-03-2014
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/01/2014 và tại tòa người khởi kiện ông NĐ_Trần Công Hòa trình bày: Nguồn gốc phần nhà, đất có diện tích 144m2 đất thổ cư, hiện nay chưa được cấp giấy chứng nhận, tọa lạc tại số 9/36 Xa Lộ Hà Nội, khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM do ông chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Viết vào năm 1986 bằng giấy tay, đến năm 1993 ông cất một căn nhà cấp bốn và ở ổn định cho đến ngày nhà nước thu hồi. Ngày 02/12/2013 Ủy ban nhân dân Thành phố HCM ban hành Quyết định số 3453/QĐ – UBND thu hồi tổng thể 108.897 ha đất nằm trong khu vực quy hoạch đầu tư xây dựng Đại học quốc gia Thành phố HCM tại phường LT và phường Linh Xuân quận TĐ, giao cho Đại học quốc gia Thành phố HCM 95.8176 ha đất trong phần diện tích đất thu hồi nêu trên, để tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng, quản lý khu đất là không đúng với trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.