cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

542/2016/DSPT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1629
  • 62

Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà

27-04-2016
TAND cấp tỉnh

Vào tháng 01/2014 ông và vợ là bà LQ_Lê Thị Thu Sinh có nhận chuyển nhượng một phần căn nhà của ông BĐ_Phạm Sỹ Phúc và bà BĐ_Trần Thị Linh Ngân, diện tích 50 m2, tọa lạc tại địa chỉ 67/20B LTH, khu phố 3, phường BC, quận TĐ, Thành phố HCM với số tiền 600.000.000 (sáu trăm triệu) đồng, hai bên có lập hợp đồng đặt cọc bằng giấy tay ngày 14/01/2014. Theo hợp đồng đặt cọc thì vợ chồng ông có giao trước cho ông BĐ_Phúc, bà BĐ_Ngân số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng làm 04 đợt, số tiền còn lại 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng, vợ chồng ông có nhờ ông BĐ_Phúc bà BĐ_Ngân đứng ra vay tiền tại Ngân hàng quốc tế VIB để ông giao cho ông BĐ_Phúc bà BĐ_Ngân, vợ chồng ông trả số tiền 500.000.000 đ (năm trăm triệu) đồng cho Ngân hàng bằng cách trả dần cả gốc và lãi hàng tháng, vì cần tiền nên ông BĐ_Phúc bà BĐ_Ngân có vay thêm 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng, tổng số tiền vay ngân hàng là 1.000.000.000 (một tỷ) đồng, lệ phí vay: 35.000.000 đồng, mỗi bên chịu một nửa là: 17.500.000 đồng và vợ chồng ông đã giao số tiền lệ phí cho ông BĐ_Phúc bà BĐ_Ngân vào ngày 02/3/2014.


124/2016/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2000
  • 104

Ly hôn

04-02-2016
TAND cấp huyện

Trong đơn ly hôn ngày 06/11/2015; bản tự khai ngày 16/12/2015; các biên bản ngày 24/12/2015, 12/01/2016 thì nguyên đơn – ông NĐ_Trịnh Minh Thịnh trình bày: Ông và bà BĐ_Đỗ Thị Minh Chinh tự tìm hiểu rồi đến với nhau, có tổ chức lễ cưới, sống chung với nhau từ năm 1997. Ông và bà BĐ_Chinh có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 22/3/1997 tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hưng Thuận, huyện HM, Thành phố HCM. Trong suốt 18 năm chung sống, vợ chồng ông đã xảy ra rất nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bản thân ông phải đi làm vất vả để kiếm tiền nuôi cả gia đình, nhưng vợ ông – bà BĐ_Đỗ Thị Minh Chinh tự mình quyết định mọi việc mà sử dụng tiền của vợ chồng, không hỏi đến ý kiến của ông và cũng không tôn trọng ý kiến của ông. Vì những chuyện như thế mà vợ chồng ông bất hòa ý kiến, thường xuyên mâu thuẫn, cải vã. Việc cải vã của vợ chồng ông không những ảnh hưởng đến tinh thần của ông mà còn ảnh hưởng đến các con trong nhà.


56/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2426
  • 80

Tranh chấp quyền sử dụng đất

02-02-2016
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện, các biên bản trong quá trình giải quyết vụ án thì nguyên đơn – ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh trình bày: Ông yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải để ông sử dụng lối đi qua đất của ông BĐ_Minh để ra đường công cộng. Bởi vì, mẹ ruột của ông là bà Trịnh Thị Ghê có cho ông sử dụng đất tại thửa 1740, tờ bản đồ số 1, diện tích 2848m2, xác định tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Số: 00776/QSDĐ/Q12/1998 do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 14/12/1998 cho bà Ghê. Bà Ghê đã ký Hợp đồng tặng cho phần đất này cho ông tại Phòng Công chứng Số 5, Thành phố HCM. Để ra đường công cộng, từ trước năm 1975, mẹ ông - bà Ghê đã sử dụng con đường mòn băng qua đất của ông BĐ_Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (Hồ sơ gố số: 15156 ngày 31/12/2003) do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp cho ba mẹ ông Phạm Công Hiển – bà Trịnh Thị Ghê có thể hiện đường đi nội bộ vào gia đình ông.


25/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3516
  • 69

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

26-01-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 26/05/2014 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và tại phiên tòa nguyên đơn bà NĐ_Trần Thị Linh trình bày: Ngày 09/7/2006 bà NĐ_Linh cho vợ, chồng ông Hòa, bà BĐ_Hoa vay số tiền là 200.000.000 đồng, có lập giấy vay tiền ngày 09/07/2006, với lãi suất 5%/tháng, đóng lãi vào ngày 9 tây hàng tháng, thời hạn thanh toán là 09/09/2006, để đảm bảo khoản vay ông Hòa, bà BĐ_Hoa đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6679 ngày 02/07/2008 của căn nhà số 34 ĐCM, Phường 4, Quận X đứng tên ông Hòa, bà BĐ_Hoa và đến ngày 25/10/2006hai bên thỏa thuận bà NĐ_Linh đồng ý cho ông Hòa, bà BĐ_Hoa được gia hạn thời hạn thanh toán tiền vốn đến ngày 09/03/2007. Sau đó ông Hòa, bà BĐ_Hoa đã nhiều lần vay tiếp tiền và vàng nhưng đến ngày 01/09/2012 thì hai bên cùng thống nhất lại theo giấy biên bản tổng hợp số tiền và vàng với nội dung: Thứ nhất, ông Hòa, bà BĐ_Hoa đã vay số tiền 600.000.000 đồng, lãi suất 3%/tháng, đóng lãi vào ngày 01 tây hàng tháng, thời hạn trả 12 tháng tính từ ngày 01/09/2012 đến ngày 30/08/2013.


31/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 619
  • 19

Đòi lại tài sản

25-01-2016
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/12/2014, bản tự khai và các biên bản hòa giải, nguyên đơn ông NĐ_Trần Khắc Ninh trình bày: Vào ngày 26/6/2009 bà BĐ_Đào Tam Chinh có vay của tôi số tiền là 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng) và có thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở căn nhà số 8/7 LTK, Phường 9, quận TB. Đến nay, bà BĐ_Chinh vẫn chưa trả cho tôi số tiền trên mặc dù tôi đã nhiều lần hối thúc. Nay tôi yêu cầu Tòa án xét xử buộc bà BĐ_Chinh phải trả cho tôi số tiền là 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng).