cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

12/2011/DSGĐT-HĐTP Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 11

Tranh chấp quyền sử dụng đất

22-03-2011

40/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 8

Tranh chấp thừa kế

22-12-2008

Tại đơn khởi kiện ngày 04-03-2004 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Triệu Văn Cảnh trình bày: Cha mẹ ông mất để lại căn nhà và đất ở số 138 đường TN, khóm 1, phường X, thị xã BL. Nguồn gốc nhà đất: năm 1957, cụ Lâm Thị Hai đứng tên mua của cụ Thái Thị Phấn, lô đất này có chiều ngang mặt tiền là 9m, chiều ngang phía sau khoảng 8 m (không nhớ cụ thể); chiều dài 17m; sau khi mua đất, cụ Xướng, cụ Hai đã cất nhà, mái lợp ngói để làm nơi đậu đỗ xe, sửa chữa xe (có lúc khai là các cụ ở đây một thời gian). Vì nhà của ông BĐ_Tân bị pháo kích năm 1968, nên hai cụ đã sửa chữa lại căn nhà nêu trên cho ông BĐ_Tân ở tạm.


378/2015/HSPT: Vụ án Trộm cắp tài sản Phúc thẩm Hình sự

  • 198
  • 4

(Điều 138) Vụ án Trộm cắp tài sản

29-06-2015
TAND cấp huyện

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Văn Thuận. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuyên bố Trương Văn Thuận phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trương Văn Thuận 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2014.


230/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 198
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-06-2014

Theo đơn khởi kiện và nhũng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông NĐ_Lê Văn Tuấn (do ông Lê Văn Lang đại diện ủy quyền) trình bày: Vào năm 1991 - 1992, ông được ủy ban nhân dân xã TB, huyện TH, tỉnh ĐT cấp cho phần đất diện tích 11.173m2. Ngày 17/03/1993, ông NĐ_Tuấn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 108, tờ bản đồ số 01. Khi ông NĐ_Tuấn được cấp đất thì trước đó bà BĐ_Trịnh Thị Tú và BĐ_Trần Văn Minh đã được cấp hai phần đất liền kề. Do thửa 108 là đất gò cao, không có đường nước vào nên không ai sử dụng nên ông NĐ_Tuấn mới đăng ký và được cấp đất. Ông NĐ_Lê Văn Tuấn canh tác 1 vụ lúa, do không có đường nước nên ông không canh tác nữa. Đến năm 1996, Nhà nước múc kênh, dẫn nước vào đồng, ông canh tác trở lại thì phát hiện ông BĐ_Trần Văn Minh đã lấn chiếm của ông 3.092m2; bà BĐ_Trịnh Thị Tú lấn chiếm 8.414m2 đất. Năm 1997, ông NĐ_Tuấn kiện ra xã cho đến nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Minh và bà BĐ_Tú phải trả cho ông diện tích đã lấn chiếm.


129/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 198
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-03-2014

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông NĐ_Nguyễn Minh Chung trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã QP, huyện QT, tỉnh QB. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi qua một phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông BĐ_Nguyễn Quang Đông và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiên đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên; đồng thời ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.