cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

92/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 188
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-08-2009
TAND cấp tỉnh

Vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Kim Hằng và ông BĐ_Trần Văn Linh là cháu, gọi ông NĐ_Hùng, bà NĐ_Thu là cậu mợ. Năm 1986, vợ chồng ông NĐ_Hùng thấy vợ chồng ông BĐ_Linh không có chỗ ở nên vợ chồng ông NĐ_Hùng cho vợ chồng ông BĐ_Linh cất nhà lá, vách ván, mái tole ở nhờ trên đất ngang 4,5m, dài 8m toạ lạc tại khu phố HĐ, thị trấn LH, huyện LĐ. Hai bên không làm giấy tờ cho ở nhờ nhưng có thoả thuận miệng khi nào vợ chồng ông BĐ_Linh có tiền mua đất thì trả lại đất cho vợ chồng ông NĐ_Hùng. Đến năm 1988, vợ chồng ông BĐ_Linh xin phá bỏ nhà lá cất nhà cấp 4 vì mưa hay dột, vợ chồng ông NĐ_Hùng đồng ý. Cách đây 3-4 năm, vợ chồng ông BĐ_Linh tự ý kêu thợ xây cất thêm chiều dài 6m không hỏi ý kiến vợ chồng ông NĐ_Hùng. Nay vợ chồng ông NĐ_Hùng không cho vợ chồng ông BĐ_Linh ở nữa, yêu cầu trả lại đất, đồng ý hoàn trả lại giá trị nhà theo quy định Nhà nước.


19/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 188
  • 5

Ly hôn

08-05-2006
TAND cấp tỉnh

Theo bà Lê Thị Dững cho biết: Bà Dững và ông Tẩn kết hôn vào năm 1987, không có đăng ký kết hôn và không có con chung. Tài sản chung tạo lập được gồm 01 căn nhà ngói tọa lạc tại ấp 3, xã VL, huyện AP, tỉnh AG, 01 chiếc ghe trọng tải 140 tấn, 1,5 ha đất nông nghiệp, 01 nền nhà giá 10.000.000đ, 01 căn nhà bằng gỗ 30.000.000đ. Tài sản riêng gồm có: 12 chỉ vàng 24K, 300 giạ lúa. Vào năm 2001 con riêng của ông Tẩn về chung sống trong nhà đã xảy ra nhiều việc bất đồng cãi vã nhau trong gia đình đồng thời cũng phát hiện được ông Tẩn chưa ly hôn dứt khoát với người vợ cũ tên là Năm. Do đó bà yêu cầu Tòa án hủy hôn nhân trái pháp luật giữa bà và ông Tẩn. Về phần tài sản xin được chia theo pháp luật.


506/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 187
  • 6

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

23-04-2015
TAND cấp tỉnh

Vào ngày 04/02/2013, ông BĐ_Đặng Văn Hương, bà BĐ_Thái Thị Hữu ký “Hợp đồng vay và thế chấp tài sản” với nguyên đơn, để vay của nguyên đơn số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn vay 06 tháng, lãi suất 3,5%/tháng (tương đương 10.500.000 đồng). Ông BĐ_Hương và bà BĐ_Hữu thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 332928 do UBND quận TĐ cấp ngày 27/6/2011 cho ông BĐ_Hương và bà BĐ_Hữu (đất tọa lạc tại địa chỉ số 22/9 đường 8, khu phố 4, phường HBP, quận TĐ). Hiện bản chính giấy tờ nhà đất này nguyên đơn đang giữ. Do không trả nợ gốc đúng hạn nên hai bên thống nhất làm lại “Hợp đồng vay mượn tiền” vào ngày 06/10/2013, thực chất đây là việc gia hạn vay tiền của Hợp đồng ban đầu. Trong hợp đồng vay mượn tiền này hai bên thống nhất ghi thêm 02 người con của ông BĐ_Hương, bà BĐ_Hữu là BĐ_Đặng Thị Thu Hân và bà BĐ_Đặng Thị Hoa cùng vay, số tiền vay hai bên thống nhất ghi là 320.000.000 đồng (20.000.000 đồng dư ra so với số tiền ban đầu là do bị đơn không trả lãi nên nguyên đơn ghi thêm). Thời hạn vay là 03 tháng, lãi suất 3,5%/tháng.


55/2013/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 186
  • 6

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

07-10-2013
TAND cấp huyện

Vào ngày 20 tháng 11 năm 2010 (Âm lịch) vợ chồng ông BĐ_Lữ Văn Anh, BĐ_Lê Thị Thúy có đến vay của bà NĐ_Bình số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Khi vay ông BĐ_Lữ Văn Anh và bà BĐ_Lê Thị Thúy thỏa thuận 06 tháng sau sẽ trả. Đến ngàv 03 tháng 12 năm 2010 (Âm lịch) ông BĐ_Anh và bà BĐ_Thúy tiếp tục vay 10.000.000 đồng và cũng thỏa thuận 06 tháng sau sẽ trả. Đến ngày 15 tháng 01 năm 2011 (Âm lịch) ông BĐ_Anh và bà BĐ_Thúy tiếp tục vay cùa bà NĐ_Bình 5.000.000 đồng. Đến ngày 03 tháng 4 năm 2011 (Âm lịch) ông BĐ_Anh và bà BĐ_Thúy tiếp tục vay thêm 5.000.000 đồng.


222/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 185
  • 5

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-06-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 1/9/2009, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Nhàn trình bày: Phần con kênh đang tranh chấp có nguồn gốc do gia đình bà NĐ_Nguyễn Thị Nhàn đào, quản lý sử dụng từ năm 1960 đến nay. Bà đã được cấp quyền sử dụng đất vào năm 1994. Đến khi Nhà nước chuyển dịch sang nuôi tôm, ủy ban nhân dân xã TH cho con bà NĐ_Nhàn là anh Trần Văn Khởi mướn đất canh tác nuôi tôm phần đất do trường học Cái Giếng quản lý nằm phía bên kia con mương, nên bà NĐ_Nhàn có chừa đường nước cho con bà làm đường nước nuôi tôm.