100/2006/PS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 378
- 7
Ngày 28/4/2003 ông NĐ_Trần Văn Long có đơn khởi kiện yêu cầu ồng BĐ_Trần Văn Xiêm Và bà BĐ_Trần Thị Sông (tức Ngọc Ánh) trả lại phần diện tích đất hiện bà BĐ_Sông và ông BĐ_Xiêm đang sử dụng. Theo ông NĐ_Trần Văn Long trình bày: Cha mẹ ông là cụ Trần Văn Mẫn và cụ Nguyễn Thị Ba, trước khi các cụ qua đời có chia đất cho 5 người con. Phần đất của ông được chia gồm: 10 công đất ruộng, 7 công đất biền bãi và 5 công đất vườn. Việc phân chia không lập giấy tờ nhưng ông đã sử dụng từ năm 1963 và đã được Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/12/1995 với tổng diện tích là 33.350m2. Hiện nay bà BĐ_Sông (là chị gái) đã chiếm hết phần đất biền bãi trồng lá, ông BĐ_Xiêm (là anh trai) chiếm 2590m2 đất vườn và phần mương sổ nước có chiều ngang 6m, chiều dài 72m. Ông yêu cầu bà BĐ_Sông, Ông BĐ_Xiêm trả diện tích đất nêu trên.
97/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 812
- 3
Tranh chấp hợp đồng thuê nhà và quyền sử dụng đất
Theo anh Thân Văn Hạn (được bà NĐ_Hoàng Thị Tuyết ủy quyền) trình bày trong đơn khởi kiện và lời khai như sau: Nguồn gốc thửa đất 490m2 hiện anh Thân Văn Phàm (con trai bà NĐ_Tuyết) và bà BĐ_Thân Thị Biện đang ở là của bố mẹ anh là ông Thân Văn Nghi và bà NĐ_Hoàng Thị Tuyết. Năm 1972, bố anh xin ra khỏi hợp tác xã và đã đổi 12 thước ruộng cho ông Đào Văn Kiểm để lấy thửa đất này. Sau đó bố mẹ anh làm nhà ở. Năm 1985 bố mẹ anh thấy bà BĐ_Biện (bà BĐ_Biện là em ruột bố nuôi) sống độc thân nên đã đồng ý để bà BĐ_Biện ra ở 3 gian nhà nhỏ cấp 4 trên phần đất đổi cho ông Kiểm để bà BĐ_Biện bán nước sinh sống, cũng năm đó thì bố mẹ anh cho anh Thân Văn Phàm ra ở 4 gian nhà cấp 4 cùng trên mảnh đất với bà BĐ_Biện. Năm 1986 bà BĐ_Biện đã dở nhà cũ xây lại nhà mới ở đến nay.
07/2013/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 3221
- 128
Tranh chấp hợp đồng mua bán thép
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 để tính lãi chậm trả theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi suất quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triến nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật.
10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 845
- 11
Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay.
10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 455
- 4
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay. Tuy nhà đất thuộc sở hữu chung của cụ Kiềm và các nguyên đơn, nhưng do cụ Kiềm hoàn cảnh khó khăn nên các nguyên đơn để cho cụ Kiềm thu tiền thuê nhà sử dụng chi tiêu hàng tháng.