cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

141/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 846
  • 10

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

30-11-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, ông NĐ_Trần Duy Hiền xác định yêu cầu khởi kiện, như sau: Ngày 20/01/2006, Ong đã lập hợp đồng về việc nhận chuyến nhượng của vợ chồng ông BĐ_Chu Đức Minh và bà BĐ_Lê Thị Xinh lô đất có diện tích 72,30m2 (rộng 4,50m X dài 16,07m), số C5-2/45, thuộc tờ bản đồ quy hoạch khu Trung tâm Chí Linh, phường Y (cũ) nay là phường TN, thành phố VT, với giá 250.000.000 đồng (Giấy tự lập, không qua công chứng, chứng thực của chính quyền địa phương). Trong đó, hai bên có thoả thuận vói nội dung: Trả đủ số tiền trên ngay sau khi ký hợp đồng. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà bên B (bên mua) không mua thì bị mât tiên đã giao là 250.000.000 đồng. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà bên A (bên bán) không bán thì bị phạt gấp hai lần số tiền mà bên B đã thanh toán, cụ thể là 500.000.000 đồng.


30/2009/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1055
  • 18

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

26-11-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Thân trình bày: Trong quá trình chung sống giữa tôi với ông BĐ_Trang Quốc Nhân từ năm 1991 đến năm 2004 đã tạo lập được khối tài sản chung gồm: Một lô đất có diện tích qua đo đạc thực tế 7.607m2 thuộc thửa đất số 375B, tờ bản đồ số 12 tại tổ 1, phường Chi Lăng; các tài sản có trên lô đất này gồm: 01 căn nhà xây cấp 4; 01 nhà xưởng khung gỗ, mái lợp tôn; tường rào bao xung quanh đất và nhà xưởng; cây cà phê catêmon trồng từ năm 1997, từ lâu không được chăm sóc và máy móc thiết bị có 02 máy cưa vòng (cưa CD) mua từ năm 1992 và 02 máy cưa mâm mua từ năm 1995.


31/2009/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1259
  • 8

Ly hôn

28-09-2009
TAND cấp tỉnh

Anh NĐ_Võ Thanh Phi trình bày: Anh và chị BĐ_Lê Thị Thùy được hai gia đình tổ chức cưới vào năm 1999, không có đăng ký kết hôn và đến tháng 5/2007 anh và chị BĐ_Thùy ly thân cho đến nay. Nguyên nhân là sau khi cưới về sống chung với gia đình anh, chị BĐ_Thùy thường hay bỏ về nhà cha mẹ ruột, khi cưới chị BĐ_Thùy, cha mẹ anh là ông LQ_Võ Tấn Hồng - bà LQ_Nguyễn Thị Si cho 10 chỉ vàng 24K do chị BĐ_Thùy giữ, đến năm 2006 cha mẹ anh cất nhà cho ra ở riêng ở khu dân cư chợ Phú Điền và cha mẹ anh có cho 05 công đất ruộng, năm 2007 làm ruộng bán được 18.700.000đ, sau khi bán lúa chị BĐ_Thùy bỏ nhà đi và mang theo số tiền bán lúa, anh và chị BĐ_Thùy có một nền nhà ở chợ Phú Điền do anh đứng tên.


189/2009/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1140
  • 19

Ly hôn

16-09-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn bà NĐ_Hoàng Thị Hoa trình bày: Bà và ông BĐ_Thu quen biết nhau từ khoảng năm 1983, sau đó đăng ký kết hộn vào ngày 15/01/1988 tại UBND xã Thành Đông A, huyện TH, tỉnh KG, sinh sống tại KG đên tháng 9/1999 thì chuyển về TP. HCM, có 02 con chung là Phạm Hoàng Yến, sinh ngày: 26/10/1998 và Phạm Hoàng Anh, sinh ngày: 02/11/1992. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh kể từ khi lấy nhau, nguyên nhân là do ông BĐ_Thu thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn, về đêm khuya, đòi chém bà, đuổi bà ra khỏi nhà. Khi đó con trai bà là cháu Hoàng Anh mới 7 tuổi, việc say xỉn liên tục lặp đi lặp lại nhiều lần dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Ông BĐ_Thu có thái độ vô trách nhiệm với gia đình, con cái. Ông BĐ_Thu làm nghề mộc, gia đình bán tạp hóa, dù làm ở nhà, hay ở ngoài thì đều say xỉn như nhau rồi đi đến khuya mới về. Khi ông BĐ_Thu về, bà phải trực mở cửa và không dám nói câu nào, nếu nói là bị ông BĐ_Thu quậy, đòi bỏ nhà đi.


107/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 932
  • 13

Đòi lại tài sản

31-08-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, ông NĐ_Nguyễn John xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ông là người gốc Việt có quốc tịch Hoa kỳ về Việt Nam sinh sống từ năm 2000. Từ khi về Việt Nam ông có quen biết với bà BĐ_Phạm Thị Kim Phượng và đã đưa cho bà BĐ_Phượng giữ một số tài sản, gồm: 275 lượng vàng SJC và 24.500USD. Số tài sản trên được đưa nhiều lần và không làm giấy tờ biên nhận. Mục đích ông đưa tiền, vàng là để bà BĐ_Phượng mua đất giùm ông, do ông là Việt Kiêu nên không được phép đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bà BĐ_Phượng không mua đất nên hai bên có thỏa thuận như sau: bà BĐ_Phượng sẽ trả số tiền, vàng nêu trên cho ông vào ngày 15/8/2002. Đúng hẹn, bà BĐ_Phượng không thực hiện thỏa thuận. Khoảng tháng 10/2002, bà BĐ_Phượng có trả cho ông 31 lượng vàng SJC và 24.500USD, hai bên không làm giấy tờ biên nhận.