cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

12/2014/GĐT-HC: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Giám đốc thẩm Hành chính

  • 535
  • 14

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

25-08-2014

Ngày 19/01/2004, ủy ban nhân dân thành phố HCM ban hành Quyết định số 211/QĐ-UB về việc thu hồi diện tích 552,3ha đất và tạm giao cho Quỹ Đầu tư Phát triển thành phố để chuẩn bị đầu tư xây dựng Khu Công nghiệp TPT, huyện CC. Trong đó hộ gia đình ông NĐ_Đào Văn Nhân bị thu hồi diện tích là 10.425m2 đất. Ngày 30/5/2007, ủy ban nhân dân huyện CC, thành phố HCM ban hành Quyết định số 2006/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất cho hộ ông NĐ_Đào Văn Nhân, số tiền là 1.775.559.360đ. Không đồng ý với việc bồi thường theo quyết định, ông NĐ_Nhân có đơn khiếu nại.


1342/2014/DSPT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1138
  • 38

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

29-09-2014

Theo án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau: Nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Văn Toản có ông Bùi Thanh Vũ làm đại diện trình bày: Vào khoảng năm 2001 ông NĐ_Toản có mua của vợ chồng ông BĐ_Trần Văn Lạo, bà BĐ_Trần Thị Khương 5262 m2 đất nông nghiệp thuộc thửa số 11 tọa lạc tại xã HP, huyện NB với giá là 43.000.000 (Bốn mươi ba triệu) đồng, ngay sau khi ký hợp đồng ông NĐ_Toản đã giao cho ông BĐ_Lạo, bà BĐ_Khương 38.000.000 (Ba mươi tám triệu) đồng, còn 5.000.000 (Năm triệu) đồng hai bên thỏa thuận ông NĐ_Toản sẽ trả hết cho ông BĐ_Lạo, bà BĐ_Khương sau khi đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, và làm các thủ tục chuyển nhượng. Thế nhưng sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông BĐ_Lạo, bà BĐ_Khương, không tiến hành thủ tục chuyển nhượng như đã thỏa thuận, mặc dù ông NĐ_Toản đã nhiều lần yêu cầu.


10/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 491
  • 12

Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự do người chết để lại

24-09-2014

Theo giấy biên nhận ngày 21/12/2010 có nội dung anh Trần Tố Anh có nhận giữ cho anh NĐ_Hà 02 cây vàng. Theo kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh ĐN ngày 27/7/2011 có căn cứ cho rằng chữ viết họ và tên Trần Tố Anh và nội dung giữ hộ 02 cây vàng cho anh NĐ_Hà là do anh Tố Anh viết ra, nhưng chữ ký trên giấy biên nhận chưa đủ cơ sở kết luận vì chữ ký khác dạng, chưa có mẫu so sánh cùng thời điểm. Tòa án nhân dân thành phố BH không tiếp tục thu thập chứng cứ để thực hiện việc giám định mà buộc chị BĐ_Hân thực hiện nghĩa vụ trả vàng cho anh NĐ_Hà là chưa có căn cứ vững chắc. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn buộc chị BĐ_Hân phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 305 Bộ luật dân sự là trái pháp luật, nên kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh ĐN là có căn cứ.