cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

166/2014/DS-ST: Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2978
  • 69

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

10-09-2014
TAND cấp huyện

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thừa nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà NĐ_Ly và ông BĐ_Vinh xác lập chỉ vì mục đích đảm bảo cho số tiền vay, là phù hợp với biên nhận hợp đồng vay giữa nguyên đơn và bị đơn do phía bà NĐ_Ly cung cấp, nhưng thấy rằng hợp đồng vay của bà NĐ_Ly và ông BĐ_Vinh đã xác lập bằng văn bản là biên nhận nợ và có thế chấp giấy chứng nhận QSDĐ của ông BĐ_Vinh nên đã thỏa mãn quyền và nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng vay tài sản


186/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1840
  • 79

Tranh chấp quyền sử dụng đất

13-05-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 01/4/2009 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Lê Văn Tú và bà NĐ_Đỗ Thị Xuân Thoan trình bày: Ngày 4/5/1989 ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Đỗ Duy Hồng, bà Nguyễn Thị Kim Phượng và bà Đỗ Thị Xuân Ba nhà và đất tại số 207 LTĐ. Nhà có chiều ngang 5m, chiều dài 28m nằm trên thửa đất có chiều ngang 5m, chiều dài 48m, phần đất phía sau bỏ trống. Gia đình ông BĐ_Hà Văn Thịnh có nhà đất kế bên ở phía Đông nhà đất của ông đã lấn chiếm 12m2 tại vị trí phía Đông Bắc đất của ông bà. Khi phát hiện đất bị lấn chiếm ông bà đã khiếu nại đến ủy ban nhân dân phường Trần Hưng đạo hòa giải nhưng không thành. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Thịnh trả 12m2 đất lấn chiếm.


184/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1021
  • 30

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-05-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Văn Nga do đại diện được ủy quyền - ông Lê Trần Phú Đức trình bày: Năm 1995, ông NĐ_Nga mua nhà và đất của bà Nguyễn Thị Ngưu với diện tích đất là 1.115,35m2, việc mua bán giữa hai bên được chính quyền địa phương và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng thực. Khi mua, bà Ngưu đã được cấp Giấy đăng ký ruộng đất ngày 06/9/1984 với diện tích đất đăng ký là 1.104m2. Anh BĐ_Phan Văn Tuấn và anh BĐ_Phạm Quang Hoàng là người sử dụng đất liền kề với đất của ông NĐ_Nga theo hướng Nam đã xây nhà, lấn chiếm đất theo chiều ngang dọc Quốc lộ 28 cả hai anh (BĐ_Tuấn và Anh BĐ_Hoàng) là l,52m; theo chiều dài phía sau nhà thì anh BĐ_Tuấn lấn 2,4m, anh BĐ_Hoàng lấn l,05m. Ông NĐ_Nga khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Tuấn, anh BĐ_Hoàng phải trả lại phần diện tích đã lấn chiếm cho ông.


160/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1219
  • 44

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

18-04-2014

Năm 1973, cụ Thanh mua một mẫu đất tại khi Rạch Ruột Ngựa (nay thuộc phường 16 quận T) và sinh sống tại đó. Thời kỳ thành lập hợp tác xã, gia đình đã giao hết đất vào hợp tác xã. Cụ Năm đứng tên chủ hộ gia đình, là xã viên hợp tác xã phường 21 quận T (nay là phường 16 quận T - Hợp tác xã nông nghiệp Phủ Định) và được nhận đất do hợp tác xã giao có diện tích 6907m2 đất nông nghiệp. Sau khi hợp tác xã không còn, cụ Năm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 6907m2 nông nghiệp. Cụ Năm đã bán đi một phần đất nên chỉ còn lại khoảng 2300m2 thuộc thửa đất 7 và số 8 tờ bản đồ số 02. Diện tích đất nêu trên hiện nay do người con thứ năm là ông BĐ_Nguyễn Văn Hà quản lý, sử dụng. Ông BĐ_Hà đi nghĩa vụ quân sự từ năm 1981 đến 1984, khi xuất ngũ thì làm công nhân Xí nghiệp nước mắm Việt Hương Hải. Khi còn sống, cụ Năm đã khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Hà trả lại cho cụ quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do cụ Năm chết trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Quá trình sử dụng đất, ông BĐ_Hà đã xây dựng nhà trọ trên đất để kinh doanh, hưởng hoa lợi từ việc kinh doanh này.


159/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 998
  • 23

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

18-04-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 07/06/2007 nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy trình bày: Năm 1984, mẹ bà là cụ Huỳnh Thị Nữ (chết 2001) được Nông trường Nhị Xuân cấp cho 2000m2 đất, trên đất có sẵn một căn nhà do Thanh niên xung phong cất. Cụ Nữ đã chia cho con trai là ông LQ_Nguyễn Mạnh Hữu 1000m2 đất, còn lại 1000m2 cụ Nữ cùng các con gái là bà, bà BĐ_Nguyễn Thị Bình, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh An sử dụng. Nay bà có yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của mẹ bà là cụ Huỳnh Thị Nữ (chết 2001) để lại là diện tích 1000m2 đất tại số 43B ấp 5, xã XTS, huyện HM, thành phố HCM hiện do chị gái bà là bà BĐ_Nguyễn Thị Bình quản lý, sử dụng.