192/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 864
- 13
Theo Đơn khởi kiện ngày 04/12/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - anh NĐ_Nguyễn Đức Thịnh trình bày: năm 1984, anh được ủy ban nhân dân thị xã Hòn Gai (nay là thành phố HL) cấp cho 240m2 đất để xây dựng nhà ở theo Giấy phép sử dụng đất công và xây dựng nhà ở số 257 ngày 06/4/1984. Sau khi được giao đất, anh đã xây dựng nhà ở nhưng sau bị đổ. Đồng thời, do anh Nguyễn Văn Khảng (anh trai chị BĐ_Thủy và chị BĐ_Linh) lấn chiếm, cản trở không cho anh sử dụng đất đã được cấp nên anh đã đề nghị ủy ban nhân dân thị trấn HT (nay là phường HT) giải quyết nhiều lần nhưng không thành.
427/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 506
- 9
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Do có nhu càu mua đất kinh doanh, thông qua người môi giới nên anh biết vợ chồng anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh ở khu 8 xã HC, VT có nhu cầu bán đất và tài sản gắn liền với đất. Sau khi gặp gỡ vợ chồng anh BĐ_Ninh và thỏa thuận việc mua bán, ngày 21/8/2009 tại phòng công chứng số 1 thành phố VT tỉnh PT, anh NĐ_Khang và vợ chồng anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh ký 3 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 706,707,708 với sự làm chứng của công tố viên Nguyễn Xuân Quý. Ngay sau khi ký kết hợp đồng, anh NĐ_Khang đã thanh toán 2.300.000.000đ cho anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh. Sau khi ký kết hợp đồng, anh NĐ_Khang thấy tài sản như trong hợp đồng số 706 không đúng như thực tế, nên đã cùng vợ chồng anh BĐ_Ninh, chị BĐ_Thịnh hủy bỏ hợp đồng 706 và đã lấy lại số tiền 1.000.000.000 đ. Như vây chỉ còn 2 hợp đồng 707 và 708.
419/2014/DS-GĐT: Đòi lại quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 669
- 7
Năm 1993, bà đăng ký Ủy ban nhân dân (UBND) xã HS, huyện Tam Đảo (nay là huyện BX), tỉnh VP xin cấp 04 xuất đất (300m2/xuất). Do mỗi người chỉ được đăng ký một xuất, nên bà nhờ cụ Hoàng Văn Thảo (là bố của bà), bà BĐ_Nguyễn Thị Hương và bà Nguyễn Thị Hạnh mỗi người đứng tên đăng ký hộ 01 xuất và bà cũng đứng tên đăng ký 01 xuất, bà trực tiếp nộp tiền 04 xuất đất, mỗi xuất 480.000đ cho ông Nguyễn Tiến Hồng (là cán bộ địa chính xã HS); ông Hồng có viết phiếu tạm thu đứng tên 4 người, sau đó bà được nhận 4 xuất đất, trong đó đất bà đứng tên là ô số 01, cụ Thảo ô số 02, bà BĐ_Hương ô số 03, bà Hạnh ô số 04.
416/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 865
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Vào năm 2000, sau khi về hưu, vợ chồng ông thường xuyên về Việt Nam thăm bà con và cũng để tìm cơ hội làm ăn, thường gặp bị đơn là bà BĐ_Ký Kim Nên là con ruột của người anh vợ ông gọi vợ chồng ông bằng Cô dượng, vợ chồng ông rất tin tưởng bà BĐ_Nên. Lúc này bà BĐ_Nên đang làm nghề thu mua phế liệu và đang định cư tại Campuchia chưa có hộ khẩu tại Việt Nam và bà BĐ_Nên có hỏi mượn tiền của vợ chồng ông. Do là chỗ bà con nên vợ chồng ông đồng ý cho mượn. Thời gian này bà BĐ_Nên vẫn chưa có hộ khẩu tại Việt Nam vì vậy ông phải nhờ tài khoản của người bạn là Hứa Phát Tài (tên khác là Sái) để ông chuyển tiền về. Sau đó nhờ ông Tài giao lại cho bà BĐ_Nên đã nhận cụ thể: chuyển qua ngân hàng Banco Popular Frace ở Pháp cho ông Tài ngày 09/9/2002 là 4.352 Euro, ngày 15/9/2002 là 6.300 Euro, ngày 17/5/2003 là 1.300 Euro, tổng cộng số tiền là 182.280.000đ.
411/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 919
- 4
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Năm 1965 ông kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, Thủy, Sâm. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sinh, BĐ_Nguyễn Xuân Thanh sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sinh nói với ông cho anh BĐ_Sinh mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sinh thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sinh lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sinh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sinh và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sinh, anh Thủy phải trả lại nhà đất trên cho ông.