cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

16/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 780
  • 11

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

26-08-2014
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/3/2014 và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 23/7/2014 người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Cảnh Trung trình bày: Tháng 5/2013 và tháng 01/2014 gia đình ông nhận được hai (02) quyết định số 2912/QĐ-UBND ngày 24/5/2013 và quyết định số 7930/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ, thành phố HCM về việc chi trả, và chi bổ sung tiền bồi thường, hỗ trợ dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn từ nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, ông không đồng ý với nội dung của cả hai quyết định trên, bởi lẽ: Hai quyết định số 2912/QĐ-UBND ngày 24/5/2013 và quyết định số 7930/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ được ban hành dựa trên căn cứ pháp lý là quyết định số 2725/QĐ-UBND ngày 16/6/2006 của Ủy ban nhân dân thành phố HCM, về việc bổ sung quyết định số 3435/QĐ- UBND ngày 20/8/2003 của Ủy ban nhân dân thành phố HCM và dựa vào căn cứ pháp lý là quyết định số 660/QĐ- TTg ngày 17/6/2003 của Thủ Tướng Chính phủ về việc phê duyệt chi tiết 1/2000 dự án Đại học Quốc gia thành phố HCM.


19/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 494
  • 11

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

21-08-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện ông NĐ_Nguyễn Tiến Tiều trình bày: Ông Nguyễn Tiến Đảng, ông Nguyễn Tiến Nghĩa và ông là 03 anh em. Vì không có nơi ở nên 3 anh em đã bàn bạc và thống nhất mua đất để xây nhà ở, các ông đã tìm gặp ông Trần Văn Út. Sau khi bàn bạc, ông Đảng đại diện ký văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Trần Văn Út. Ngày 26 tháng 9 năm 1997, ông Đảng chia cho ông 200 m2, nhưng hai bên vẫn viết giấy tay mua bán với nhau, đất toạ lạc tại tổ 42- Ấp 4- Phường ALD- Quận X. Diện tích thực tế ông sử dụng là 206,44 m2, lúc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Đảng, trên đất không có tài sản gì, đất trống. Đầu năm 2000, ông có xây dựng trên diện tích ấy 1 căn nhà để ở và chuồng trại để chăn nuôi với tổng diện tích xây dựng khoảng 175 m2, nhà xây không phép, xây xong ông đã ở và trực tiếp chăn nuôi. Nhà đất của ông nằm trong khu quy hoạch đô thị mới Thủ Thiêm, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định số 1499/QĐ-UB ngày 13 tháng 4 năm 2005 về việc đền bù giải toả và ông đã nhận đủ số tiền 161.471.576 đồng. Ngày 6 tháng 7 năm 2009 BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 9652/QĐ-UBND có nội dung điều chỉnh lại Điều 1 của quyết định số 1499/QĐ-UB ngày 13 tháng 4 năm 2005 của Uỷ ban nhân dân Quận X có nội dung điều chỉnh lại số tiền đền bù, cụ thể đền bù cho ông số tiền 13.464.000 đồng và ông phải hoàn trả lại số tiền 148.007.576 đồng cho BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, các nội dung khác không thay đổi, lý do là ông xây dựng công trình trên đất bao gồm nhà ở và chuồng trại sau năm 2002.


20/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 736
  • 10

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

19-08-2014
TAND cấp huyện

Người khởi kiện bà NĐ_Hoàng Thị Minh ủy quyền cho bà Dương Thị Khánh Phương đại diện trình bày: Vào năm 1992, vợ chồng bà NĐ_Minh có nhận chuyển nhượng của bà Lê Thu Thuỷ khoảng 131,88 m2 đất, ngay trong năm 1992, vợ chồng bà NĐ_Minh đã cất nhà và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Nay nhà đất nằm trong khu quy hoạch giải toả, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định số 5629/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2011, theo nội dung của quyết định thì BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X chỉ bồi thường cho vợ chồng bà NĐ_Minh phần diện tích đất là 54,77 m2 và đền bù phần kiến trúc trên đất không đúng với thực tế nên từ đó bà NĐ_Minh đã khiếu nại đến BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, qua khiếu nại, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011 có nội dung đền bù hổ trợ thêm cho bà NĐ_Minh số tiền 112.320.885 đồng. Việc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành 2 quyết định số 5629/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2011 và quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011 bồi thường hổ trợ cho bà NĐ_Minh không đúng thực tế, không thoả đáng nên bà NĐ_Minh tiếp tục khiếu nại và BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 675/QĐ- UBND-TTr ngày 11 tháng 1năm 2012 có nội dung giữ nguyên nội dung quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011.


15/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1615
  • 16

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất

14-08-2014
TAND cấp huyện

Ngày 24/3/2014 ông LQ_Mộc nhận được quyết định Quyết định 48/QĐ-UBND ngày 18/3/2014 về việc cưỡng chế áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do BĐ_Chủ Tịch UBND phường LX ban hành. Quyết định số 30/QĐ-UBND ngày 24/02/2014 về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, ông LQ_Mộc nhận ngày nào không nhớ. Sau khi nhận 02 quyết định này ông LQ_Mộc không đồng ý với 02 quyết định này và ông LQ_Mộc đã làm đơn khiếu nại đến UBND phường LX. Ngày 14/03/2014 UBND phường LX đã giải quyết đơn khiếu nại của ông LQ_Mộc và trả lời đơn khiếu nại theo văn bản số 119 cho rằng khiếu nại của Mai không có cơ sở pháp luật để giải quyết. Ngày 24/3/2014 ông LQ_Mộc nhận được quyết định Quyết định 48/QĐ-UBND ngày 18/3/2014 về việc cưỡng chế áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do BĐ_Chủ Tịch UBND phường LX ban hành


18/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 603
  • 12

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

29-07-2014
TAND cấp huyện

Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2011, Đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 01/10/2013, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Nguyễn Thị Đa có ông Hà Ngọc Tuyền là người đại diện theo ủy quyền yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy Quyết định số 10293/QĐ – UBND ngày 19/7/2010 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và Quyết định số 12179/QĐ – UBND – TTr ngày 16/9/2011; yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải bồi thường toàn bộ 3.597m2 theo mức 100% giá đất ở là 16.200.000đ/m2 vì vào thời điểm thu hồi giải tỏa để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2 đất này đã được san lấp theo Giấy phép số 40/GP – UB – QLĐT ngày 05/4/2000 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và có vị trí mặt tiền đường, đất thu hồi có nguồn gốc là đất trong cùng một thửa có nhà ở; yêu cầu công nhận diện tích 3.597m2 đất bị thu hồi thuộc quyền sở hữu chung của 26 hộ dân, không phải của cá nhân bà NĐ_Nguyễn Thị Đa, buộc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải xét hạn mức bồi thường cho 26 hộ chứ không phải hạn mức bồi thường cho 01 hộ.