105/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 492
- 12
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn anh NĐ_Trường Văn Hà trình bày: Năm 1993 anh trai anh là Trần Trấn Thông có sang nhượng của ông BĐ_Học bà BĐ_Linh diện tích đất là 2.300m2 tại ấp đồngxã PT giá 4.000.000đồngghi giấy sang nhượng để tên anh và anh cũng có mặt nhận ranh đất, chỉ ghi diện tích theo sổ thuế chứ không đo đạc cụ thể và ông BĐ_Học bà BĐ_Linh kê khai nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Sau khi sang nhượng anh Thông cho anh diện tích đất trên nhưng do anh ở xa không đến canh tác mà nhờ ông BĐ_Học trông coi hộ. Năm 2004, ông BĐ_Học báo cho anh biết phía chị Diệu và anh LQ_Hồng lấn ranh, anh có đến xã PT khiếu nại nhưng chưa được giải quyết
06/2008/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 332
- 3
Trong đơn khởi kiện ngày 16-10-2007 và các văn bản tự khai, anh NĐ_Nguyễn Văn Quý trình bày: Anh và chị BĐ_Mai Thị Hương kết hôn Ngày 27-12-1987, có đăng ký kết hôn tại UBND xã GV. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống cùng gia đình tại xóm 1, xã GV. Được một thời gian, sau đó vợ chồng anh ra ở riêng, cũng từ đó mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, đến đầu năm 2004 mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Nguyên nhân do chị BĐ_Hương không tôn trọng anh và cả dòng họ nhà anh, anh đã cố gắng khuyên nhủ, giải thích nhưng chị BĐ_Hương không sửa chữa được, đến ngày 18-8-2004 chị BĐ_Hương bỏ về gia đình bố mẹ đẻ ở, bỏ mặc anh và các con. Từ đó đến nay, anh và chị BĐ_Hương đã sống ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm, không ai quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa, tình cảm vợ chồng không còn, vì vậy anh yêu cầu tòa án giải quyết cho anh được ly hôn.
118/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1607
- 38
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Linh trình bày: vào năm 1989-1990 ông có chuyển nhượng cho ông BĐ_Mã 3 công đất ruộng tầm, tọa lạc tại ấp TA 1, xã TT, huyện TH, tỉnh KG 3 công X 2 chỉ vàng 24k = 6 chỉ vàng 24k. Năm 1990 ông chuyển nhượng thêm 4,5 công tầm 3m với giá 18 chi vàng 24k (4,5 X 4 chỉ vàng = 24k). Khi chuyển nhượng không có làm giấy tờ gì nhưng ông có hứa khi nào ông BĐ_Mã trả nợ cho ông, ông sè cho chuộc lại 02 công ở sau hè nhà gần đất thổ cư trong 4,5 công (phần này có làm giấy thỏa thuận cho chuộc lại đất). Sau khi chuyến nhượng thì ông canh tác từ năm 1989-1990 đến năm 2003-2004 thì ông cho anh Nguyễn Văn Trường thuê 19,5 công đất, trong đó có 7,5 công ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã, ông cho thuê với giá 1 công = 20 giạ lúa/năm. Đến năm 2005 thì ông BĐ_Mã vào canh tác phần đất 4,5 công tầm 03m đến nay là 2 năm. Phần đất 7,5 công hiện nay ông BĐ_Mã đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất. Phần này năm trong 03 thửa, ông không xác định thửa nhưng ông xác định Phòng tài nguyên môi trường huyện TH đo đạc ngày 12-7-2007 là đúng vị trí đất ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã.
96/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1937
- 38
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 16-3-2007 vợ chồng bà ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho ông BĐ_Lê Văn Bính, giá tiền chuyển nhượng là 26.000đ/m2 X 7.350m2 = 191.100.000đ. Cùng thời điểm này bà NĐ_Nguyễn Thị Bến là em ruột của ông NĐ_Thu thừa kế diện tích 7.350m2 đất của bà Nguyễn Thị Quê để lại sau khi chết vào năm 1998. Ông NĐ_Thu đồng ý cho bà NĐ_Bến chuyển nhượng luôn cho ông BĐ_Bính nên cùng vợ chồng bà đứng tên chuyển nhượng tổng diện tích 14.700m2. Tổng số tiền là 382.200.000đ. thực hiện hợp đồng phía ông BĐ_Bính viết một tờ hợp đồng ghi ngày 16-3-2007, cả 04 người cùng ký tên ông BĐ_Bính giao 65.000.000đ tiền cọc, số còn lại 317.000.000đ ông cam kết sẽ trả vào ngày 16-4-2007 và 16-5-2007, mỗi lần giao 158.600.000d và mỗi lần trả cách nhau 30 ngày rồi vợ chồng bà và bà NĐ_Bến tự chia cho nhau.
193/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2012
- 44
Bà NĐ_Trương Thị Linh và ông NĐ_Lê Văn Ên trình bày: nguồn gốc phần đất vợ chồng bà đang quản lý sử dụng là do vợ chồng bà mua lại từ năm 1990, trên đất có 1 căn nhà bằng cây. Đến ngày 6-4- 2006, Ủy ban nhân dân huyện AP cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0084/Q1 cho vợ chồng bà với diện tích 80,9m2. Cũng trong năm 2006, bà cất lại nhà cấp 4 bằng bêtông kiên cố, còn nhà đất của ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có trước khi bà tới đây sinh sống, giáp ranh liền kề với nhà đất của bà, giữa hai ranh đất có 1 cây dừa. Vào năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có hỏi bà đốn cây dừa để xây dựng nhà thành nhà một trệt, một lầu (phần lầu băng cây). Sau khi xây dựng nhà xong, thì vợ chồng ông BĐ_Chân tiếp tục lắp đặt 1 giàn phơi quần áo và 1 giàn nóng của máy lạnh, khi đó bà có ngăn cản nhưng ông BĐ_Chân vẫn tiếp tục xây dựng, chính vì vậy đã chiếm khoảng không gian nằm trên đất của vợ chồng bà đã được cấp giấy đỏ, làm cho bà không thể sử dụng khoảng không bên trên.