365/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1024
- 23
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 12-8-2001, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Quang Tà, bà LQ_Lê Thị Ngọc Ba có chuyển nhượng cho bà BĐ_Nguyễn Thị Kiều phần đất thổ vườn tại số 2C63 ấp 2, xã PVH, huyện BC có diện tích 1.000 m2, thuộc thửa số 77, tờ bản đồ số 7, xã PVH, huyện BC, thành phố HCM, với giá 120.000.000 đồng tương đương 25 lượng vàng SJC. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, bà BĐ_Kiều đã đặt cọc 20.000.000 đồng, sau đó ông NĐ_Tà có mượn thêm 5.000.000 đồng. Tổng cộng ông NĐ_Tà nhận của bà laf 25.000.000 đồng. Vào thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng thì phần đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. đến ngày 21-12-2001, vợ chồng ông NĐ_Tà, bà LQ_Ba được cấp giấp chứng nhận quyền sơ hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sô 403/2001 cho căn nhà mang số 2C63 ấp 2, xã PVH, huyện BC và diện tích 211,8m2.
61/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 844
- 10
Trước khi ông Duyên chết có để lại 02 tờ di chúc: - Di chúc ngày 02-4-1960 có nội dung: Cho bà Hà Thị Hường (vợ kế của ông Duyên) 01 căn nhà và cho ông Vương Phước Trung 02 căn nhà trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT hiện nay. - Di chúc ngày 10-4-1960 có nội dung: Cho ông Vương Phước Trung toàn bộ nhà và đất tại 02A Lê Hổng Phong, PH, NT. Sau khi ông Duyên chết cha tôi là ông Vương Phước Trung quản lý toàn bộ nhà đất tại số 02A LHP, NT. Còn 03 căn nhà 02A, 02B, 02C tại đường PĐ, NT, ông Trung đứng tên cho thuê. Năm 1983 ông Trung đã làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi kiện đòi lại căn nhà của chủ thuê. Lúc này ông Thuận đã biết ông Duyên lập di chúc cho cha tôi là ông Trung 02 căn nhà và cho bà Hà Thị Hường 01 căn nên cha tôi (ông Trung) mới phải làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi đòi lại 03 căn nhà tại số 02 đường PĐ, NT. Vì tình cảm anh em nên sau khi ông Thuận đòi được 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT, cha tôi giao cho ông Thuận quản lý hết cả 03 căn nhà này.
40/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 459
- 4
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Theo tờ “Giấy mượn tiền” lập ngày 3/5/2007, thì bà BĐ_Nguyễn Thị Dân có mượn bà NĐ_Đỗ Thị Ninh số tiền 12.000.000đ, hẹn đến 20/5/2007 trả 6.000.000đ, đến 5/6/2007 trả hết 6.000.000đ còn lại. Ngày 30/7/2007, NĐ_bà Ninh có đơn khởi kiện, yêu cầu BĐ_bà Dân thanh toán số nợ theo tờ giấy vay nợ trên. BĐ_bà Dân xác nhận có viết và ký vào tờ giấy vay nợ NĐ_bà Ninh 12.000.000đ do NĐ_bà Ninh xuất trình, nhưng cho rằng thực tế bà vay NĐ_bà Ninh nhiều lần
30/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 861
- 10
NĐ_ông Gà khởi kiện BĐ_ông Mo yêu cầu chia thừa kế 3.000m2 đất nông nhgiệp tại thôn 3, xã LS, TP. VT. Diện tích đất này BĐ_ông Mo đã đuợc cấp giấy chứng nhận QSD đất vào năm 1998. Nguồn gốc đất này là một phần trong diện tích 13.000m2 đất trước kia là của vợ, chồng ông Trần Văn Tám và bà Huỳnh Thị Ai khai hoang từ trước năm 1975. Năm 1988, vợ chồng bà Ai, ông Tám giao 13.000m2 đất này cho ông Trần Văn Mười Một là con quản lý, sử dụng. Năm 1990, ông Một chết, vợ ông Một là LQ_bà Chinh tranh chấp ngôi nhà trên đất với bà Ai. BĐ_ông Mo lúc đó đại diện bà Ai đứng ra giải quyết. các bên đã thỏa thuận tại biên bản hòa giải ngày 14/5/1991, bà Ai trả cho LQ_bà Chinh 15 chỉ vàng để được sở hữu ngôi nhà của vợ, chồng LQ_bà Chinh.
52/2014/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 789
- 12
NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc Khang và BĐ_Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Thương mại Chi Minh ký kết Hợp đồng tín dụng hạn mức số 0507/13/TD/I.16 ngày 13/5/2013. Theo đó, Ngân hàng cho BĐ_Công ty Chi Minh vay với các nội dung thoả thuận như sau: Hạn mức tín dụng tổng: 2.000.000.000 đồng. Mục đích vay: bổ sung vốn kinh doanh. Lãi suất cho vay: được quy định tại các Giấy nhận nợ. Lãi suất thay đổi định kỳ 01 tháng/lần theo quy định của ngân hàng từng thời kỳ và/hoặc ngay khi Ngân hàng thông báo thay đổi lãi suất. Lãi quá hạn là : 150% lãi^suất trong hạn. Thời hạn hiệu lực rút vốn của hạn mức tín dụng: 12 tháng, kể từ ngày 13/5/2013 đến ngày 13/5/2014. Thời hạn vay của mỗi món vay: Được ghi trên giấy nhận nợ, không quá 06 tháng. Quá thời hạn này, việc cho vay sẽ do Ngân hàng xem xét chấp thuận.