115/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 954
- 19
Theo đơn khởi kiện ngày 20/1/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Mạnh, bà NĐ_Miên trình bày: cha mẹ ông NĐ_Mạnh (là cụ Nguyễn Đính và cụ Nguyễn Thị Chấn) chết có để lại cho vợ chồng ông bà một thửa đất thổ cư khoảng 3 sào tương đương 1.500m2 (có tứ cận). Ở phía nam của thửa đất ông bà có xây dựng một ngôi nhà cách tường nhà ông Bảy 1,8m dùng để buôn bán nhỏ và sửa xe đạp. Ngày 20/4/1989 vợ chồng ông bà bán ngôi nhà này gắn liền với 80m2 đất cho bà Đào Thị Giàu (chị ruột bà NĐ_Miên) với giá 160.000 đồng. Hai bên xác lập giấy mua bán viết tay, không có chứng thực. Trong giấy mua bán có thỏa thuận, sau này bà Giàu không có nhu cầu sử dụng nữa thì sẽ nhượng lại cho ông bà.
104/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 525
- 3
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Đơn khởi kiện ngày 21/8/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Ngọc Thu và bà NĐ_Lê Thị Lý trình bày: Năm 1998, vợ chồng ông BĐ_Bảo, bà BĐ_Na chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý 500m2 đất tại thôn 1, xã CE, thành phố BMT với giá là 5.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng có xác nhận của UBND xã, các bên đã giao đủ tiền và nhận đất.Vợ chồng ông NĐ_Thu đã nhiều lần yêu cầu làm thủ tục sang tên, nhưng vợ chồng ông BĐ_Bảo không thực hiện. Do đó, ông NĐ_Thu và bà NĐ_Lý khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Bảo và bà BĐ_Na phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong đó có 100m2 đất thổ cư và 400m2 đất nông nghiệp và chịu mọi chi phí phát sinh khi làm thủ tục sang tên cho ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý.
67/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1157
- 31
Tại Đơn khởi kiện ngày 13/3/2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, bà NĐ_Ngô Thị Ba và ông NĐ_Ngô Văn Chiến trình bày: Cha mẹ các ông bà là cụ Ngô Văn Quýt (chết năm 1978) và cụ Hồ Thị Hiền (chết năm 2002) sinh được 4 người con là ông NĐ_Ngô Văn Bảo, ông NĐ_Ngô Văn Chiến, bà NĐ_Ngô Thị Ba và bà BĐ_Ngô Thị Tiên. Khi còn sống, cụ Quýt, cụ Hiền tạo lập được tài sản là đất đai, nhà cửa và một số đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Sau giải phóng, hai cụ chia cho ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến mỗi người khoảng 3000 đến 4000m2 đất (ông NĐ_Bảo, ông NĐ_Chiến đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các phần đất này). Đến khi hai cụ đều qua đời thỉ phần đất còn lại có diện tích 6.732m2 (đo thực tế 6.657m2 gồm cả đất thổ cư và đất lúa) do cụ Hiền đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 27/02/1997.
144/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 473
- 9
Năm 1994 ông bà có gửi về cho bà BĐ_Trương Thị Lệ Nàng (chị của bà NĐ_Thanh) số tiền là 60.000 USD và người bạn tên Olivier Stream cùng gửi 125.000 USD để mua căn nhà số 237 PNL, quận T, thành phố HCM để bà BĐ_Nàng xây dựng làm khách sạn. Đến năm 1996, bà NĐ_Thanh quyết định về Việt Nam để sinh sống nên có gửi tiếp cho bà BĐ_Nàng số tiền 165.210 USD để mua căn nhà số 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM và nhờ bà BĐ_Nàng đứng tên giùm. Bà NĐ_Thanh được biết căn nhà trên bà BĐ_Nàng mua lại của ông Nguyễn Tấn Phát và bà Võ Thị Ngọc Hòa với giá 405 lượng vàng SJC, hiện nay cả ông Phát và bà Hòa đã chết, các con ông Phát và bà Hòa ở đâu bà không rõ. Năm 2000, bà BĐ_Nàng và ông NĐ_Hà xây dựng căn nhà 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM thì bà NĐ_Thanh có gửi về số tiền là 20.000 USD để xây dựng khách sạn. Cả hai khách sạn đều do bà BĐ_Nàng kinh doanh, quản lý.
322/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 307
- 1
Ngày 27-3-2006, vợ chồng ông, bà chuyển nhượng cho vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Út Nhung, ông LQ_Lê Văn Thạnh 14 công đất ruộng tại ấp Hậu Bối 2, xã MD, huyện HB, tỉnh BL với giá 215.000.000đồng. Ngày 06- 7-2007, vợ chồng ông, bà chuyển nhượng tiếp cho vợ chồng bà BĐ_Nhung 1,5 công đất ở và đất vườn liền kề với giá 14,5 chỉ vàng/công và để trốn tiền thuế, hai bên thống nhất chỉ ghi giá chuyển nhượng cả hai lần là 215.000.000đồng. Hợp đồng chuyển nhượng được ủy ban nhân dân xã MD chứng thực. Nay vợ chồng bà BĐ_Nhung đã dược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa thanh toán tiền nhận chuyển nhượng đất lần sau nên vợ chồng ông, bà khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà BĐ_Nhung trả lại 1,5 công đất và trả tiền thuê 1,5 công đất trong 2 năm là 60 giạ lúa.