cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

29/2013/LĐST Sơ thẩm Lao động

  • 1179
  • 35

Tranh chấp về tiền trợ cấp thôi việc

18-09-2013
TAND cấp huyện

Ngày 20/4/2012, BĐ_Tổng công ty du lịch Sen Vàng (Nay là BĐ_Tổng công ty du lịch Sen Vàng -TNHH một thành viên) có ban hành quyết định số 156/QĐ-TCT, giải quyết chế độ nghỉ việc theo đơn của bà NĐ_Hoàng Nguyễn Thúy Hà kể từ ngày 12/3/2009 và số tiền trợ cấp thôi việc, Công ty có trách nhiệm thanh toán cho bà trong thời gian công tác từ tháng 4/1978 đến tháng 10/2001, với thời gian công tác tại cơ quan Nhà nước là 23 năm 07 tháng (Quy tròn 24 năm); thời gian công tác tại Công ty Liên doanh Đại Dương là 7,5 năm từ tháng 11/2011 đến tháng 3/2009, mức lương được tính trên cơ sở: Hệ số lương trước khi chuyển qua Liên Doanh: 3,48- bậc 8/8 (NĐ 26/CP), được chuyển xếp lương sang NĐ 205/CP với hệ số 51- bậc 8/8 (Bảng lương viên chức chuyên môn nghiệp vụ ở các Công ty Nhà nước); Tiền lương bình quân 06 tháng liền kề = mức lương tối thiểu chung của NĐ 33/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 x hệ số: (650.000 đồng x 4,51= 2.931.500 đồng), số tiền trợ cấp thôi việc cho bà NĐ_Hà là 2.931.500 đồng x 31,5 năm x 1/2 = 46.171.125 đồng.


25/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 2801
  • 96

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

12-09-2013
TAND cấp huyện

Ngày 22/6/2012 Phòng nhân sự của Trường THPT Quốc Tế Mỹ (AIS) có mời ông NĐ_Tùng lên và thông báo chấm dứt hợp đồng lao động với ông NĐ_Tùng kể từ ngày 01/8/2012 với lý do cần điều chỉnh lại nhân sự tài xế, đồng thời đưa ra 01 biên bản đánh máy sẵn rồi đề nghị ông NĐ_Tùng ký tên vào biên bản đó. Trong biên bản này có ghi là ông NĐ_Tùng nhất trí thôi việc, nhưng trong khi đó ông NĐ_Tùng không đồng ý nghỉ việc như biên bản ghi. Tuy nhiên Phòng nhân sự không đồng ý.


03/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 3251
  • 152

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

03-09-2013
TAND cấp huyện

Ngày 19 tháng 9 năm 2011, bà NĐ_Chi được Tổng giám đốc BĐ_Công ty Mai Anh triệu tập để họp giải quết về hợp đồng lao động và thông báo rằng sẽ chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 19 tháng 9 năm 2011 và yêu cầu bà NĐ_Chi bàn giao lại toàn bộ công việc, không được tiếp tục đến công ty. Bà NĐ_Chi không đồng ý với yêu cầu trên của ông và yêu cầu cho tiếp tục làm việc, tuy nhiên bị từ chối. Sau ngày 19/9/2011, bà NĐ_Chi không tới công ty làm việc và công ty chấm dứt bảo hiểm y tế đã cấp cho bà NĐ_Chi kể từ ngày 18/10/2011


03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1532
  • 51

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

26-10-2012
TAND cấp huyện

Năm 1989, bà được Ủy ban nhân dân (UBND) thị xã PL (nay là thành phố PL) giao cho một lô đất trồng cây công nghiệp tại lô số 36 ở Làng Ngol – phường TB với diện tích 1200m2 theo Quyết định số 167/QĐ-UB ngày 11/05/1989. Sau khi được giao đất, bà cùng với ông Trần Đức Quang (Nay là chồng bà) tiến hành trồng cây cà phê trên diện tích đất trên, đến năm 1990 bà bận công tác xa nên giao lại cho hai anh em trai bà là ông Đào Ngọc Hoàng và ông đào Ngọc Chuyền trông nôm, chăm sóc cà phê trên đất cho đến cuối năm 1995 thì không sử dụng đất nữa vì lý do bà bận công tác xa, còn hai anh em bà bận học nghề. Khoảng cuối năm 1996 bà phát hiện ông LQ_Nguyễn Ngọc Điện và bà LQ_Trần Thị Vẻ xây dựng nhà lấn sang phần đất của bà, bà đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND phường TB nhưng không được giải quyết. Đến năm 2007, bà tiếp tục có đơn khiếu nại và lúc này mới được UBND phường TB giải quyết. Do UBND phường TB giải quyết và BĐ_UBND thành phố PL có công trả lời không thỏa đáng nên bà có đơn khởi kiện ra Tòa.


06/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 743
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giao đất

10-07-2012
TAND cấp huyện

Ông LQ_Tuấn trình bày: Vào khoảng năm 1954, ông Nguyễn Văn Báu khai phá phần đất 09 công chiều ngang, chiều dài tính từ sông Gành Hào đến Kinh Quản Húi và giao cho con ruột là bà Nguyễn Thị Tám quản lý, sử dụng. Đến năm 1968, địch đóng đồn nên tất cả phải đi di dân đi nơi khác sinh sống nên bỏ đất hoang. Đến năm 1975, gia đình ông trở về canh tác. Đến năm 1976, do đê bị vỡ nhà nước huy động nhân dân đắp đê ngăn mặn nên đất chia thành 02 phần trong đê và ngoài đê.