43/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 276
- 18
NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 05/5/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Hoàng Xuân Linh (tức Láy) trình bày: Bố của ông là cụ Hoàng Văn Sông (tử sỹ năm 1946). Sau khi bố ông mất, gia đình ông có hai nhân khẩu là ông và mẹ ông - cụ Hoàng Thị San. Năm 1959, mẹ ông đưa khoảng 20.000m2 đất vào Hợp tác xã Đồng Tiến, xã Thanh Bình, huyện NR, tỉnh BK (nay là xã KL, huyện NR, tỉnh BK). Năm 1960, cụ San chết, năm 1961 ông đi học xa nhà nên toàn bộ đất đai do Hợp tác xã quản lý. Năm 1993, Hợp tác xã nêu trên tự giải thể, ông về nhận lại đất của cụ San, khi đi nhận đất có ông Hoàng Văn Cai là người cùng mẹ khác cha với ông đi cùng, sau đó ông cho ông Cai mượn toàn bộ đất của cụ San nhưng giữa hai người không làm thủ tục, giấy tờ gì.
42/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 589
- 19
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 20/3/2011 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Hoa trình bày: Năm 2000 vợ chồng bà có mua của ông Vũ Văn Hoà là người cùng thôn thửa đất có diện tích 90m2 ở thôn An Ninh, xã YP, huyện YP với giá 32.500.000đ. Nguồn gốc thửa đất này là do ông Hòa mua của ông Trần Văn Lục, còn ông Lục lại mua của HTX dịch vụ Nông nghiệp Yên Sơn cũ (gồm 3 thôn An Ninh, Cầu Giữa, An Lập) từ năm 1994. Năm 2001 vợ chồng bà có điều tiếng với nhau nên ngày 03/02/2001 (âm lịch) chồng bà là ông NĐ_Trần Văn Sinh đã tự ý viết giấy bán thửa đất cho bà BĐ_Nguyễn Thị Vy, đến ngày 07/02/2001 bà mới biết việc ông NĐ_Sinh tự ý bán đất không được sự đồng ý của bà. Ngày 14/02/2001 bà có gọi bà BĐ_Vy vào nhà và bảo là không đồng ý việc ông NĐ_Sinh bán đất, bà BĐ_Vy cũng đã nhất trí không có việc mua bán đất nữa.
40/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 912
- 23
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Theo đơn khởi kiện ngày 19/11/2009 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn là bà NĐ_Hồng Thị Chân trình bày: Ngày 31/8/2009 bà có vay của bà BĐ_Phạm Thi Ngân số tiền là l tỷ đồng, hai bên thỏa thuận lãi suất 4%/tháng, số tiền vay bà BĐ_Ngân giao cho bà 2 lần, cụ thể: - Lần thứ nhất vào sáng ngày 31/8/2009 bà BĐ_Ngân chuyển vào tài khoản của bà tại Ngân hàng Agri-Bank chi nhánh Hòa Thành số tiền là 500.000.000 đồng. - Lần thứ hai vào chiều ngày 31/8/2009 bà nhận trực tiếp tại nhà bà BĐ_Ngân (số 104 khu phố 2, cửa 4 thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh TN) số tiền là 460.000.000 đồng, lý do bà chỉ nhận 460.000.000 đồng là do bà BĐ_Ngân đã trừ 40.000.000 đồng một tháng tiền lãi trước. Tổng số tiền bà nhận của bà BĐ_Ngân là 960.0000.0000 đồng.
13/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 526
- 11
NHẬN THẤY Theo các Đơn khởi kiện ngày 22/12/2010, ngày 13/02/2012 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Nguyễn Thị Bình trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội chồng (cụ Nguyễn Văn Bạn) có diện tích 10 công đất ruộng, sau khi cụ Bạn chết, ông BĐ_Nguyễn Văn Chương (cha chồng bà) quản lý canh tác. Đến năm 1995, ông Nguyễn Văn Xuân (con ông BĐ_Chương) cưới bà làm vợ, bà làm dâu cho gia đình ông BĐ_Chương được 2 năm, gia đình nhà chồng cho vợ chồng bà 3 công đất ruộng, 3 công đất vườn và thổ cư tổng cộng là 6 công, vợ chồng bà trực tiếp canh tác đến năm 2002, do chồng bà là ông Xuân bị bệnh chết nên bà có cố lại cho cha mẹ chồng 02 công đất ruộng bằng 10 chỉ vàng 24k, nhưng không làm giấy tờ, đến năm 2004 thì bà chuộc lại và trực tiếp canh tác được một năm.
05/DS-GĐT: Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1491
- 30
Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị NĐ_Phạm Thị Thương trình bày: Tôi và anh BĐ_Trần Anh Tú có kết hôn hợp pháp vào năm 1995 tại UBND phường Cẩm Sơn, thị xã CP, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tôi và anh BĐ_Tú sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh BĐ_Tú đi làm thường xuyên về nhà muộn, chơi bời rồi về nhà gây sự, đánh đập, chửi bới tôi. Từ lý do đó tôi và anh BĐ_Tú thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau, có lần hàng xóm phải can thiệp. Ngoài ra, anh còn không bênh vực tôi khi tôi có va chạm với gia đình bên nội. Từ tháng 10 năm 2011, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, tôi đã đưa con nhỏ đi chỗ khác ở; nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.