cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

03/2014/HSPT1: tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) Giám đốc thẩm Hình sự

  • 1616
  • 41

(Điều 139) Vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

12-06-2014

Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 và Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Toà án quân sự Quân khu 2 thì nội dung vụ án tóm tắt nh¬ư sau: Cuối năm 2009, Trương Văn Doãn được Lưu Thị Hồng nói quen biết nhiều người có khả năng xin được vào học các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác về một số cơ quan trong tỉnh Sơn La. Hồng thỏa thận với Doãn mỗi trường hợp xin được thì mỗi người hưởng 10 triệu đồng. Thông qua công việc và các mối quan hệ, Doãn đã gặp nhiều người và nói với họ về việc mình có khả năng xin cho các đối tượng vào học tại các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác. Do đó, từ tháng 4-2011 đến 01-2012 Doãn đã trực tiếp nhận 14 hồ sơ và 1.070.000.000 đồng của những người bị hại.


03/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1540
  • 56

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất

09-01-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 30-10-2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lâm Thành Gia và bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, là đại diện theo ủy quyền của ông Gia trình bày: Ngày 15-3-2006, ông Phạm Hồng Thanh và bà Nguyễn Thị Lập ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Gia toàn bộ nhà, đất tại số 21 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000 lượng vàng SJC. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Gia đã trả cho ông Thanh, bà Lập 100 lượng vàng SJC, 500.000.000đ (tương đương với 44,24 lượng vàng SJC) và2.000 USD, việc giao nhận vàng có chữ ký của ông Thanh. Ông Thanh, bà Lập đã sử dụng số tiền này để nộp tiền mua căn nhà số 21 Phùng Khắc Khoan của nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Sau đó, ông Thanh, bà Lập đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng bán nhà cho ông Gia.


143/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3123
  • 125

Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

13-11-2013

Ngày 15/5/2008, bà Văn Anh Muội ký hợp đồng tặng cho bà Văn Anh Kim (là chị gái của bà Muội) nhà, đất tại số 04 Lê Văn Hưu, phường Bến Nghé, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là nhà số 04 Lê Văn Hưu), hợp đồng được công chứng tại Phòng Công chứng số 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do bà Muội tặng cho bà Kim nhà này vì thời điểm đó bà Muội bị bệnh nặng, bác sĩ chẩn đoán là khó có thể sống được, bà Muội không có chồng con; khi đó, bà Kim từ Canada về nói với bà Muội tặng cho bà Kim nhà để phòng ngừa rủi ro, nếu bà Muội không qua khỏi bạo bệnh thì có người đứng ra lo thủ tục giấy tờ; bà Kim chỉ quản lý giùm và hứa không chuyển nhượng cho người khác, nếu bà Muội qua khỏi thì hai bên huỷ hợp đồng tặng cho. Do tin tưởng bà Kim nên bà Muội đã ký kết hợp đồng tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu cho bà Kim. Khi ký hợp đồng tinh thần bà Muội không minh mẫn. Mục đích việc tặng cho nhà số 04 Lê Văn Hưu là nếu bà Muội chết thì căn nhà sẽ được chia cho một vài anh chị em. Khi ông Nguyễn Thanh Bình (là chồng của bà Kim) không cho bà Muội ờ nhà số 04 Lê Văn Hưu thì bà Muội mới biết bà Kim đã được sang tên quyền sở hữu nhà.


126/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1959
  • 83

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

23-09-2013

Tại đơn khởi kiện ngày 06-3-2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông trình bày: Bố ông là cụ Nguyễn Đình Chiện (chết năm 1998), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Mở (chết năm 2005). Bố mẹ ông có 04 người con gồm ông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương, bà Nguyễn Thị Lan. Trước đây gia đình ông ở số 2 Hàng Bún, còn bác ông là Nguyễn Đình Nhuần ở số 10 Hàng Bún. Khi đi sơ tán về thì nhà của bác bị Nhà nước lấy giao cho người khác sử dụng, nên bố ông đã nhường nhà số 2 Hàng Bún cho cụ Nhuần ở, gia đình ông đi thuê nhà, ông Đỗ Trọng Thành là người ký hợp đồng cho bố ông thuê tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc ngày 01-02-1972. Nhà 19 Thuốc Bắc thuộc quyền sở hữu của 05 anh chị em ông Thành gồm ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị Ngà, bà Đỗ Song Toàn, bà Đỗ Thị Nguyệt, ông Đỗ Trọng Cao. Do ông Cao cần tiền chữa bệnh nên đã bán 01 buồng 38m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông, hợp đồng ông Cao ký bán không ghi ngày tháng năm, giá bán là 6550 đồng, ông Cao đã nhận đủ tiền


83/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1179
  • 25

Tranh chấp thừa kế

08-07-2013

Tài sản của các cố để lại là nhà đất tại 16 đường Hùng Vương (số cũ là 14, hiện do cụ Bé cùng các con cụ Đính quản lý, sử dụng) và nhà đất 40 (số cũ là 14) đường Nguyễn Tri Phương, thành phố Huế (do cụ Phú quản lý, sử dụng). Nhà, đất nêu trên có giấy tờ chứng nhận do chế độ cũ cấp. Các cố chết không để lại di chúc. Các nguyên đơn yêu cầu được chia thừa kề tài sản của các cố để lại làm 05 phần, trong đó các con của cụ Quế, cụ Dung, cụ Thảo, cụ Đính mỗi thừa kế một kỷ phần, còn cụ Phú và cụ Hảo 01 kỷ phần.