239/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 827
- 11
Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại
Nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Bửu Chi trình bày: Khoảng tháng 9 năm 1994, ông NĐ_Nguyễn Bửu Chi có thỏa thuận và lập hợp đồng (không có xác nhận của địa phương) với em ông là BĐ_Nguyễn Bửu Linh chuyển nhượng 3000m2 đất lúa tọa lạc Thạnh Hưng, TT với giá 10 chỉ vàng 24k, giao vàng tại nhà ông NĐ_Chi, việc giao vàng không có giấy tờ, có bà Phan Tuyết Mai (mẹ ông - đã chết) chứng kiến. Hiện nay phần đất này do ông LQ_Nguyễn Trọng Tuấn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phân đất chuyển nhượng bao gồm 02 thửa. 01 thửa do Ông BĐ_Linh đứng tên trên giấy tay sang nhượng ngày 08/9/1994 chỉ ghi diện tích 15 sào, 01 thửa do ông LQ_Mai Thanh Hà sang nhượng cho ông BĐ_Linh, ông BĐ_Linh giao cho ông NĐ_Chi giấy tay do ông BĐ_Linh chuyển nhượng đất từ ông LQ_Mai Thanh Hà ngày 27/06/1992. Từ năm 1994 đến nay ông NĐ_Chi là người trực tiếp sử dụng đất và đóng thuế (ông đưa tiền cho con rể là LQ_Nguyễn Văn Lương giao cho ông BĐ_Linh đóng thuế).
237/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 464
- 8
Theo đơn khởi kiện ngày 7/3/2007 và các lời khai của ông NĐ_Phạm Văn Thanh trình bày: Nguồn gốc diện tích đất 724m2 đang tranh chấp là của chị gái ông tên Phạm Thị Bích Lựu mua của ông Lâm Minh Trung năm 1997. Năm 1999, bà Lựu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2001, bà Lựu chuyển nhượng lại cho ông và ông đã làm thủ tục sang tên xong. Sau khi mua ông đã quản lý đất, trồng rau, làm lều nuôi vịt. Do bị ô nhiễm nên năm 2003 ông không nuôi vịt nữa, lều vịt tự sập đổ. Đất của ông có một mặt tiếp giáp với tường nhà máy nước đá Quốc Hương do bà BĐ_Trần Thị Hà là chủ. Năm 2004, bà BĐ_Hà đục tường nhà máy cho đổ đất vào diện tích đất của ông. Ông đã có đơn ngăn chặn gửi Ủy ban nhân dân phường, thành phố và tỉnh nhưng không được giải quyết. Nay ông yêu cầu bà BĐ_Hà trả đất để ông sử dụng, ông sẽ trả tiền san lấp theo định giá cho bà BĐ_Hà.
233/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 596
- 15
Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/9/2008 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Nga trình bày: Bà và ông Nguyễn Ngọc Khiêm chung sống từ năm 1973 không có hôn thú, sống tại căn nhà số 118 LMX, phường 7, quận TB, thành phố HCM (số cũ 132/25 Nguyễn Văn Thoại, quận TB, thành phố HCM) và có 01 con chung tên LQ_Nguyễn Đức Phụng. Trước khi chung sống với bà, ông Khiêm có vợ là bà Phan Thị Nga và có 03 người con chung tên LQ_Nguyễn Ngọc Thanh Đương, LQ_Nguyễn Ngọc Thanh Tân, LQ_Nguyễn Ngọc Tố Tiên. Ông Khiêm và bà Nga ly hôn năm 1973. Ông Khiêm chung sống với bà BĐ_Phạm Thị Chi từ năm 1971 không có hôn thú, có 01 con chung tên LQ_Nguyễn Ngọc Thanh Tú.
228/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1985
- 37
Cha mẹ của bà là cụ Nguyễn Văn Thái (chết năm 1988) và cụ Dương Lan (chết năm 2002) sinh được ba người con chung gồm NĐ_Nguyễn Thị Vũ, LQ_Nguyễn Thị Bình và BĐ_Nguyễn Ngọc Đương. Sinh thời, cha mẹ bà khai khẩn và sử dụng 02 phần đất gồm: 04 công đất ở khu vực 6 phường HT và 16 công đất cùng 01 căn nhà gỗ mái tole có diện tích 145m2 tọa lạc tại số 44/4 khu vực Thạnh Mỹ, phường LB, quận CR, thành phố CT. Năm 1974, cụ Thái và cụ Lan đã chia đất cho các con như sau: bà NĐ_Vũ được 04 công đất tọa lạc tại HT - CR; bà LQ_Bình được 04 công tại Thạnh Mỹ - CR (nhưng sau đó cụ Lan lấy tại 01 công cho người cháu là Nguyễn Thị Út) và bà BĐ_Đương được 04 công đất tại Thạnh Mỹ - CR (nhưng sau đó cụ Lan lấy lại 01 công cho người cháu là Nguyền Thị Út).
222/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 267
- 5
Theo đơn khởi kiện ngày 1/9/2009, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Nhàn trình bày: Phần con kênh đang tranh chấp có nguồn gốc do gia đình bà NĐ_Nguyễn Thị Nhàn đào, quản lý sử dụng từ năm 1960 đến nay. Bà đã được cấp quyền sử dụng đất vào năm 1994. Đến khi Nhà nước chuyển dịch sang nuôi tôm, ủy ban nhân dân xã TH cho con bà NĐ_Nhàn là anh Trần Văn Khởi mướn đất canh tác nuôi tôm phần đất do trường học Cái Giếng quản lý nằm phía bên kia con mương, nên bà NĐ_Nhàn có chừa đường nước cho con bà làm đường nước nuôi tôm.