227/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 376
- 5
Nguyên đơn ông NĐ_Cao Văn Khoa, bà NĐ_Lâm Thị Ngân trình bày: Năm 1966, ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh Bỉnh Họt 02 miếng đất, ông Họt còn lại 01 miếng đất cặp ranh phần đất đã chuyển nhượng, ranh đất giữa ông bà và ông Họt là một cái đường mương, phần lòng mương khoảng 04m, bờ khoảng 02m là của ông bà nhưng ông bà và ông Họt sử dụng chung. Ông bà và ông Họt có giao kết nếu ông Họt chuyển nhượng đất cho người khác thì phải trả lại cho ông bà diện tích đất đường mương và bờ. Năm 1969, do chiến tranh nên gia đình ông bà và ông Họt đều bỏ đi, đến năm 1975 ông bà trở về canh tác trên mảnh đất đã nhận chuyển nhượng của ông Họt, còn phần đất của ông Họt thì ông BĐ_Ong Phát Quân sử dụng. Thời gian này ông bà và ông BĐ_Quân đều không đề cập đến ranh đất. Đến năm 1978, ông bà và ông BĐ_Quân mỗi người sử dụng một mương bến khác nhau nên không còn sử dụng chung cho đến hôm nay.
223/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 561
- 7
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vào ngày 19/8/2010, vợ chồng ông BĐ_Hứa Văn An, bà LQ_Phạm Thị Tuyết Phụng thỏa thuận chuyển nhượng cho bà NĐ_Nguyễn Thị Minh 3.912m2 đất thuộc thửa 64, tờ bản đồ số 29 tọa lạc tại ấp Xóm Lầm, xã TT, huyện DT, tỉnh BD với giá 2.000.000.000 đồng. Ngày 19/8/2010, bà NĐ_Minh giao cho ông BĐ_An, bà LQ_Phụng 1.000.000.000 đồng tiền đặt cọc. Ngày 08/9/2010 các bên ký hợp đồng chuyển nhượng tại Tư pháp xã TT và bà NĐ_Minh giao tiếp cho ông BĐ_An, bà LQ_Phụng 900.000.000 đồng. Bà NĐ_Minh đã nhận đất từ cuối năm 2010. Tổng số tiền bà NĐ_Minh giao cho ông BĐ_An, bà LQ_Phụng là 1.900.000.000 đồng. Ngày 07/9/2010, bà NĐ_Minh và ông BĐ_An, bà LQ_Phụng đến Ủy ban nhân dân xã TT ký hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất trên với giá 450.000.000 đồng.
222/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 267
- 5
Theo đơn khởi kiện ngày 1/9/2009, nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Nhàn trình bày: Phần con kênh đang tranh chấp có nguồn gốc do gia đình bà NĐ_Nguyễn Thị Nhàn đào, quản lý sử dụng từ năm 1960 đến nay. Bà đã được cấp quyền sử dụng đất vào năm 1994. Đến khi Nhà nước chuyển dịch sang nuôi tôm, ủy ban nhân dân xã TH cho con bà NĐ_Nhàn là anh Trần Văn Khởi mướn đất canh tác nuôi tôm phần đất do trường học Cái Giếng quản lý nằm phía bên kia con mương, nên bà NĐ_Nhàn có chừa đường nước cho con bà làm đường nước nuôi tôm.
221/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 832
- 19
Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà
Tại đơn khởi kiện ngày 12/3/2012 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Bùi Đỗ Hòa trình bày: Ngày 09/09/2007, ông đặt cọc cho bà BĐ_Nguyễn Thị Minh Nga để mua căn hộ tái định cư ở cao ốc An Cư, Khu dân cư An Phú - An Khánh, quận 2 diện tích là 140m2, giá thỏa thuận là 10.200.000đ/m2, tổng cộng là 1.428.000.000đ. Ông đã giao cho bà BĐ_Nga 882.000.000đ (ngày 09/9/2007, giao 100.000.000đ, ngày 11/09/2007 giao 782.000.000đ); số tiền còn lại 546.000.000đ ông sẽ tự đóng theo tiến độ khi được chủ phiếu tái định cư là ông Lê Thanh Liêm ủy quyền và nhận nhà. Nguồn gốc căn hộ mà bà BĐ_Nga nhận cọc, bán cho ông là của ông Lê Thanh Liêm. Ông Liêm là chủ sở hữu căn nhà bị giải tỏa tại số 36/6F tổ 45, khu phố 3, phường An Khánh, quận 2 bị giải tỏa và được bố trí tái định cư căn hộ số 04, tầng 14, chung cư An Cư, khu phố 5, phường An Phú, quận 2. Thời điểm đó chưa bàn giao căn hộ, ông Liêm bán phiếu tái định cư cho bà Phạm Thị Hà Hải, bà Nguyễn Ngọc Huệ. Bà Huệ chuyển nhượng phiếu tái định cư cho bà BĐ_Nga, bà BĐ_Nga nhận cọc chuyển nhượng lại cho ông. Kể từ ngày giao đủ tiền cho bà BĐ_Nga, ông làm các thủ tục liên quan đến việc đền bù giải tỏa để được nhận căn hộ chung cư theo thỏa thuận mua bán giữa ông và bà BĐ_Nga. Tuy nhiên sau 02 năm, ông cũng không nhận được căn hộ chung cư mà bà BĐ_Nga nhận đặt cọc chuyển nhượng cho ông theo thỏa thuận.
535/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 564
- 15
Theo đơn khởi kiện ngày 1/7/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Đào Thị Thủy trình bày: Năm 1978 bà kết hôn với ông Bùi Bằng Kiên là con trai của cụ Bùi Văn Te và cụ BĐ_Hoàng Thị Sinh, cụ Tồ chết năm 2009. Sau khi lấy ông Kiên, vợ chồng bà ở chung với cha mẹ chồng. Năm 1980 vợ chồng bà chuyển ngôi nhà mái dạ đến phần đất của cụ Bùi Văn Kế (em trai cụ Te) để ở nhờ. Năm 1982 Hợp tác xã chia đất giãn dân, vợ chồng bà được chia nửa sào bắc bộ tại khu cổng cầu, thôn Xuân Trạch, Xuân Canh, ĐÀ. Việc cấp đất giãn dân không lập thành văn bản mà Hợp tác xã chỉ gọi các hộ gia đình ra nhận đất. Đợt được cấp đất giãn dân có 4 hộ, gồm vợ chồng bà, hộ ông Trí, ông LQ_Ban và ông Phúc. Phần đất của bà được cấp giáp với đất của ông LQ_Ban, ông Phúc.