cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

35/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 781
  • 18

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

24-01-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 02/12/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Hoa trình bày: Ngày 21/02/2003, vợ chồng ông BĐ_Hoàng Ngọc Hân, bà BĐ_Trần Thị Hữu thỏa thuận chuyển nhượng 100m2 đất ở khu quy hoạch tái định cư số 02 đường Hoàng Phan Thái với giá 63.500.000 đồng cho ông. Ông đã thanh toán cho ông BĐ_Hân, bà BĐ_Hữu số tiền 62.180.000 đồng, số tiền còn lại khi ông BĐ_Hân, bà BĐ_Hữu làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật, ông sẽ thanh toán sau. Khi ông mua đất, vợ chồng ông BĐ_Hân cam đoan lô đất đó của ông BĐ_Hân, do sợ kiện cáo nên ông BĐ_Hân nhờ mẹ là bà Hoàng Thị Hậu đứng tên. Sau này Ban quản lý dự án có quyết định giao lô đất đó thì ông BĐ_Hân chịu trách nhiệm làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


21/2014/DS-GĐT: Ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 936
  • 35

Ly hôn

20-01-2014

Anh NĐ_Phạm Ngọc Tuấn và chị BĐ_Phùng Thị Minh kết hôn năm 1992 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào tháng 10/1992 tại UBND xã HX, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Ngày 04/02/2009, anh NĐ_Tuấn có đơn xin ly hôn với chị BĐ_Minh. Chị BĐ_Minh xin được đoàn tụ nhưng nếu anh NĐ_Tuấn kiên quyết ly hôn thì chị chấp nhận. Về con chung: Anh chị có 02 con chung, là cháu Phạm Văn Toàn, sinh ngày 08/9/1993 và cháu Phạm Ngọc Thắng, sinh ngày 28/9/2001. Anh NĐ_Tuấn có nguyện vọng được nuôi cháu Toàn, chị BĐ_Minh có nguyện vọng được nuôi hai con và yêu cầu anh NĐ_Tuấn cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Nguyện vọng của cháu Toàn là được ở với mẹ.


07/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 786
  • 22

Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

20-01-2014

Để bảo đảm thực hiện hợp đồng chuyển nhượng trên, anh chị đã đặt cọc cho bà BĐ_Ninh 100 triệu đồng, bà BĐ_Ninh đã nhận đủ số tiền đặt cọc này. Trong hợp đồng đặt cọc, bà BĐ_Ninh cùng anh LQ_Nguyễn Ngọc Hà, chị LQ_Hoàng Thị Thanh, chị LQ_Nguyễn Thị Cường, là con trai, con dâu và con gái bà BĐ_Ninh ký, có xác nhận của ủy ban nhân dân thị trấn KS. Đến thời hạn theo thỏa thuận, anh chị yêu cầu nhưng bà BĐ_Ninh không làm thủ tục để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận. Vì vậy, anh chị yêu cầu bà BĐ_Ninh phải trả lại 100 triệu đồng đặt cọc và tiền phạt cọc là 100 triệu đồng.


06/2014/DS-GĐT: Tranh chấp lối đi Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 840
  • 13

Tranh chấp lối đi

20-01-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 01/9/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là các ông NĐ_Nguyễn Lương Đương, NĐ_Nguyễn Hữu Vân và NĐ_Nguyễn Trung Hải trình bày: Ba hộ gia đình các ông được ông LQ_Nguyễn Lương Phương chuyển nhượng cho thửa đất số 84, tờ bản đồ số 5G-I-24 tại ngách 188/7 VTV, TX, HN. Khi chuyển nhượng, ông LQ_Phương có để lại khoảng 30m2 đất để làm sân và lối đi cho ba hộ gia đình. Ba hộ gia đình các ông đã cam kết về nghĩa vụ và quyền hạn sử dụng lối đi này ngay sau khi các hộ làm nhà ở và xây lát gạch tôn tạo lối đi. Các hộ gia đình đều có ranh giới rõ ràng, khuôn viên ổn định, có tường rào bao quanh. Ngày 29/5/2006, anh BĐ_Dương Anh Tính tự ý đập phá tường rào, trổ cửa bất hợp pháp sang ngõ đi chung của ba hộ các ông. Ủy ban nhân dân phường KT đã lập biên bản và tiến hành hòa giải nhưng không thành. Do vậy, các ông đề nghị Tòa án xác định lối đi trước cửa nhà số 8, số 10, số 12 là lối đi chung của gia đình các ông. Buộc gia đình anh BĐ_Tính xây dựng lại bức tường phân định ranh giới như hiện trạng ban đầu.


05/DS-GĐT: Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1491
  • 30

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

17-01-2014

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị NĐ_Phạm Thị Thương trình bày: Tôi và anh BĐ_Trần Anh Tú có kết hôn hợp pháp vào năm 1995 tại UBND phường Cẩm Sơn, thị xã CP, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tôi và anh BĐ_Tú sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh BĐ_Tú đi làm thường xuyên về nhà muộn, chơi bời rồi về nhà gây sự, đánh đập, chửi bới tôi. Từ lý do đó tôi và anh BĐ_Tú thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau, có lần hàng xóm phải can thiệp. Ngoài ra, anh còn không bênh vực tôi khi tôi có va chạm với gia đình bên nội. Từ tháng 10 năm 2011, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, tôi đã đưa con nhỏ đi chỗ khác ở; nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.