18/2003/HĐTP-KT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 580
- 14
Thực hiện hợp đồng, NĐ_Ngân hàng Công thương Hà Nam - Sở giao dịch II đã giải ngân đủ số tiền 1.800.000.000 đ cho BĐ_Công ty TNHH thương mại Thanh Tuyền. Đến hạn thanh toán (30/7/1996), do không trả được nợ BĐ_Công ty TNHH thương mại Thanh Tuyền đã có văn bản xin gia hạn nợ và được ngân hàng chấp nhận kéo dài thời gian trả nợ đến ngày 30/10/1996, nhưng đến hết ngày 30/10/1996 BĐ_Công ty TNHH thương mại Thanh Tuyền vẫn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình, ngân hàng đã chuyển khoản vay sang nợ quá hạn từ ngày 1/11/1996.
08/2003/HĐTP-DS Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2026
- 48
Ngày 30/05/1996, NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Thanh Nga ký hợp đồng thuê nhà số 47 TXS của ông Nguyễn Hữu Lâm với thời hạn 3 năm để mở nhà hàng ăn uống có tên gọi là Nhà hàng Phương Hà. Nhà hàng Phương Hà do 5 người góp vốn kinh doanh là các ông: Nguyễn Quốc Hoài, LQ_Nguyễn Tuấn Quân, LQ_Đặng Minh Quang, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Hữu Long (ông Thành và ông Long là em ruột của ông Lâm). Trong quá trình kinh doanh dịch vụ ăn uống thì ngày 31/07/1998, NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Thanh Nga có đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá và đã được Cục Sở hữu công nghiệp cấp giấy chứng nhận số 32102 (Theo Quyết định số 2905/QĐNH ngày 19/09/1999) bảo hộ nhãn hiệu Nhà hàng Phương Hà với lô gô gồm có hình vẽ nhà hàng và hình người cưỡi ngựa cho dịch vụ cửa hàng ăn uống giải khát thuộc nhóm 42. Do hết hạn hợp đồng thuê nhà và ông Lâm không cho thuê nữa nên ngày 26/07/1999, các ông Hoài, LQ_Tuấn Quân và LQ_Quang đã lập giấy bán phần tài sản đầu tư vào cửa hàng cho ông Lâm với giá 260.000.000 đồng một suất, ba suất là 780.000.000 đồng. Sau đó các ông Hoài, LQ_Tuấn Quân và LQ_Quang thuê nhà số 32 TS để mở lại nhà hàng Phương Hà.
58/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2505
- 42
Sinh thời cha các nguyên đơn (ông Long) tạo lập được một số tài sản trong đó có các căn nhà và đất ở ST và khi còn sống thì ông Long đã chia cho các con của mẹ kế, còn lại căn nhà 3 tầng gắn liền diện tích đất thổ cư 53,2m2, tại thửa 412, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại số 28 đường HBT, khóm 1, phường 1, thành phố ST, hiện do cha là ông Long và mẹ kế là bà BĐ_Mai đứng tên chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Khi còn sống, sợ sau này anh em có sự tranh chấp tài sản, nên cha các nguyên đơn đã đến Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh ST lập bản di chúc vào ngày 16/01/2007, để lại toàn bộ tài sản của ông trong khối tài sản chung của vợ chồng là căn nhà và đất nói trên, cho hai người con là các nguyên đơn, mỗi người được hưởng phân nửa giá trị bằng nhau
117/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1722
- 46
Về hàng thừa kế được hưởng di sản của ông Mạnh: hàng thừa kế thứ 1 và hàng thừa kế thứ 2 đều đã chết, hàng thừa kế thứ 3 hiện còn sống gồm: bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan, ông NĐ_Tân kêu ông Mạnh bằng chú ruột hưởng thừa kế thế vị của ông Mai Văn Cường. Ông LQ_Nguyễn Văn Vinh kêu ông Mạnh bằng cậu ruột hưởng thừa kế thế vị của bà Mai Thị Năm. Bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan, ông NĐ_Tân được hưởng 1 kỷ phần, ông LQ_Vinh được hưởng 1 kỷ phần. Bà BĐ_Phương có công chăm sóc phụng dưỡng ông Mạnh từ năm 1996 đến năm 2007, được chia giá trị di sản của ông Mạnh là 1 phần, ngang bằng với kỷ phần ông NĐ_Tân, bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan và ông LQ_Vinh được hưởng là hợp lý.
73/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 5263
- 141
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Quá trình sử dụng nhà ông BĐ_Đại đã tự ý xây dựng thêm nhiều căn nhà trên đất khuôn viên, tổ chức đá gà, cho thuê mặt bằng... Năm 2004, ông Đức - bà Mỹ khiếu nại tại Ủy ban nhân dân phường A, quận BT và đề nghị Sở quản lý nhà đất - công trình công cộng thành phốHCM hủy bỏ việc ủy quyền nhà cho ông BĐ_Đại. Do Nhà nước chưa có chủ trương giải quyết các tranh chấp giao dịch về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991 có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài, nên năm 2006 Tòa án nhân dân thành phố HCM trả lại đơn khởi kiện của ông Đức - bà Mỹ.