376/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 584
- 25
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/12/2010, nguyên đơn cho biết phần đất diện tích 40,5 m2 thuộc thửa 39, tờ bản đồ số 25- tại số 87 đường 49, khu phố 6, phường HBC, quận TĐ có nguồn gốc do ông NĐ_Tranh mua lại từ bà Thái Thị Hai vào năm 1996. Năm 2000, ông NĐ_Tranh cho ông BĐ_Chiến mượn (không lập văn bản) để cất nhà tạm. Tuy nhiên, sau đó ông BĐ_Chiến làm thủ tục cho đất lại cho con BĐ_Lê Thị Hồng và BĐ_Nguyễn Ngọc Thắm và bà BĐ_Hồng, ông BĐ_Thắm đã được LQ_Ủy ban nhân dân quận TĐ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (sau đây viết tắt là QSHNƠ và QSDĐƠ) số 2880/2009/GCN ngày 07/7/2009. Do vậy, ông NĐ_Tranh khởi kiện yêu cầu các bị đơn tháo dỡ nhà, trả lại cho ông 40,5 m2 đất nêu trên. Đồng thời bồi thường thiệt hại do việc xây dựng căn nhà 87 đã làm lún nền, nứt tường căn nhà 89 đường 49, khu phố 6, phường HBC, quận TĐ (của ông NĐ_Tranh) với số tiền bồi thường theo kết quả kiểm định xây dựng của cơ quan có thẩm quyền.
369/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2127
- 76
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai biên bản hoà giải và tại Toà bà NĐ_Nguyễn Thị Bích Hoa là nguyên đơn trình bày: Do trước đây bà và ông BĐ_Nguyễn Phước Sanh là mối quan hệ là mẹ vợ và con rễ, (tuy nhiên vào năm 2013 ông BĐ_Sanh và con gái bà đã ly hôn) nên vào tháng 11/2012 do ông BĐ_Sanh có nhu cầu đóng học phí nên ông BĐ_Sanh có đề nghị bà cho ông BĐ_Sanh vay số tiền 6.000 USD (sáu ngàn đô la Mỹ) tương đương 120.000.000 đ (một trăm hai mươi triệu) đồng, việc vay mượn hai bên có lập giấy vay tiền, không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền, thời gian trả là 01 năm và không có lãi suất. Thực hiện theo giấy vay tiền bà đã giao đủ số tiền trên cho ông BĐ_Sanh, tuy nhiên đến hạn trả nợ ông BĐ_Sanh đã không thực hiện việc trả nợ theo thỏa thuận nên bà có đơn khởi kiện.
368/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 643
- 15
Theo đơn khởi kiện ngày 17 tháng 11 năm 2014 và các lời khai tại Tòa án của ông Nguyễn Hoàng Vũ là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn - NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần SG TT trình bày: Ngày 14/10/2010 NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần SG TT có ký với bà BĐ_Trần Thị Kim Phương hợp đồng cấp thẻ tín dụng. Căn cứ thu nhập của bà BĐ_Phương NĐ_Ngân hàng đã cấp 2 thẻ với cùng hạn mức là 20.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng bà BĐ_Phương đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 58.093.400 đồng. Tính đến ngày 11/8/2015 bà BĐ_Phương còn nợ NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần SG TT tổng số tiền là 28.535.193 đồng (Trong đó nợ gốc 21.063.003 đồng; lãi quá hạn 7.472.190 đồng).
210/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1599
- 25
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ngày 15/10/2011 Ông có cho Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng vay 70.000.000 đồng để Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng có vốn làm ăn, được lập thành văn bản và Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng đã nhận đủ số tiền vay. Từ khi vay tiền cho đến nay Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng chưa trả tiền cho Ông, dù rằng Ông đã yêu cầu nhiều lần Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng trả tiền, nhưng Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng vẫn cố tình trốn tránh, không trả tiền. Hiện nay, Ông đang phải điều trị bệnh hiểm nghèo, nên Ông làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Ông BĐ_Nguyễn Tiến Đồng trả cho Ông số tiền vay là 70.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu tính lãi.
180/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1965
- 38
Theo đơn khởi kiện ngày 06 tháng 9 năm 2013 và tại phiên toà nguyên đơn ông NĐ_Cao Thanh Thiên có đại diện theo ủy quyền trình bày: Nguồn gốc phần đất có diện tích 22,9 m2 thuộc một phần thửa 60 tờ bản đồ số 02 Bộ địa chính xã TB, huyện TĐ (theo tài liệu 299/TTg); trọn thửa 26, một phần thửa 25, 27 và một phần đường tờ bản đồ số 67 ( theo tài liệu BĐĐC đo năm 2003) phường BC là của ông BĐ_Đặng Công Khanh và bà LQ_Nguyễn Thị Bích sử dụng. Năm 1998 ông BĐ_Khanh bà LQ_Bích chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông ( bằng giấy tờ tay). Việc chuyển nhượng giữa đôi bên đã hoàn tất, vợ chồng ông sử dụng và kê khai đăng ký đóng thuế từ năm 1999 đến nay. Năm 2008 ông BĐ_Khanh, bà LQ_Bích tự ý trổ cửa lấn chiếm, nên xảy ra tranh chấp. Vì vậy ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, công nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông đối với phần đất nêu trên, buộc ông BĐ_Khanh và bà LQ_Bích giao trả đất lại cho vợ chồng ông sử dụng.