414/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 613
- 7
Nguyên đơn ông NĐ_Phan Văn Dương trình bày: ông được LQ_Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 237 QSDĐ ngày 20/7/1993 đối với 7.350m2 đất thuộc các thửa 80, 295, 296 tờ bản đồ số 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó đất tại thửa 296 có diện tích 2.852m2/15.792m2. Vào năm 2001 ông BĐ_Trần Văn Sinh tự ý liên liếp trồng tràm, cất chòi trên đất thuộc thửa 296 và từ đó hai bên phát sinh tranh chấp cho đến nay. Hiện tại trên đất vẫn còn tràm do ông Sửu trồng. Ông Sửu và vợ đã chết nên ông yêu cầu các con của ông Sửu là ông Trần Văn Quý, ông LQ_Trần Văn Đoàn, bà Trần Thị Muồi, bà Trần Thị Tơ, bà Trần Thị Điêu, ông LQ_Trần Văn Đương, ông LQ_Trần Văn Dung và ông Trần Văn Cường có trách nhiệm giao trả lại phần đất có diện tích 2.852m2 thuộc thửa 296 tờ bản đồ số 6, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông không đồng ý hoàn lại cho các con ông Sửu giá trị tràm trồng trên đất tranh chấp. Ngoài ra, ông NĐ_Dương không yêu cầu gì khác.
382/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 372
- 8
Năm 1976 cha mẹ chị NĐ_An là ông Nguyễn Thành Lực, bà NĐ_Lâm Thị Chân được Ủy ban nhân dân xã Nghĩa Lộ (cũ) nay là Ủy ban nhân dân phường NC đồng ý cho phép chuyển đổi một đôi bò cày (trị giá 1.400đ) để lấy 8 sào 9 thước đất số hiệu 989 của ông La Quang Bông và ông Nguyễn Minh Luân. Năm 1978 cha mẹ chị NĐ_An cho ông Lâm Huê mượn 1 sào đất để canh tác, cho cụ Nguyễn Thị Thêm (bà ngoại chị NĐ_An) mượn 1 sào đất để sản xuất. Việc cho mượn đất chỉ nói miệng không viết giấy tờ. Cũng trong năm 1978 cụ Thêm cho vợ chồng bà BĐ_Lâm Thị Bương, ông LQ_Võ Trung làm nhà ở trên đất đã mượn của cha mẹ chị NĐ_An và có xin cha mẹ chị NĐ_An cho vợ chồng ông LQ_Trung, bà BĐ_Bương 100m2 trong 1 sào đất mượn để làm nhà ở, phần đất còn lại cho phép vợ chồng bà BĐ_Bương, ông LQ_Trung được tiếp tục canh tác.
360/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 279
- 3
NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 15/10/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án ông NĐ_Phạm Minh trình bày: Năm 1998 ông nhận chuyển nhượng của ông Trần Hữu Lượng một thửa đất có diện tích khoảng 27.000m2 tại thôn Đăk Soun, xã QT, huyện TĐ, tỉnh ĐN với giá 13.200.000 đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng gia đình ông trồng cà phê. Năm 2002 ông chỉ cho BĐ_Phạm Trinh (là con ruột) khoảng 13.000m2 đất để anh BĐ_Trinh và vợ tự chăm sóc, thu hoạch cà phê, cây cối kiếm thu nhập chứ ông không có ý định cho đất hay trả tiền công chăm sóc mà chỉ là cho mượn đất. Do anh BĐ_Phạm Trinh đối xử với cha mẹ tệ bạc, không đồng ý cắt một phần đất trong diện tích ông cho mượn nhập vào phần đất liền kề của ông cho vuông thửa, cũng không trả 01 tạ cà phê mỗi năm cho cha mẹ như ông yêu cầu. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh BĐ_Phạm Trinh phải trả lại toàn bộ diện tích đất mà năm 2002 ông cho mượn cùng với 990 cây cà phê và 44 cây muồng, 01 căn nhà gỗ trên đất là tài sản chung của ông và vợ là bà LQ_Trần Thị Thân. Ông đồng ý trả lại 1/2 giá trị ao cá cho anh BĐ_Phạm Trinh là 3.500.000 đồng.
359/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 308
- 3
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cụ NĐ_Bùi Thị Hoa khởi kiện đòi anh BĐ_Trần Văn Minh phải trả lại diện tích 120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên anh BĐ_Trần Văn Minh của xã ĐH, huyện KĐ, tỉnh HY. Quan điểm của cụ NĐ_Hoa xác định khoảng năm 1970 do sông lở không còn đất nên cụ đã sang thôn 6, xã ĐH mua lại đất của cụ Nguyễn Thị Khoản (cụ Khoản chuyển đi Tây Bắc nay đã chết), trong đó có cả phần đất (trước kia là ao) đang tranh chấp. Cụ NĐ_Hoa sử dụng đất và phần ao mua lại của cụ Khoản đến năm 2001, gia đình anh BĐ_Trần Văn Minh đổ đất san lấp lấn chiếm 2/3 ao với diện tích 120m2 xây tường bao giáp ngõ đi vào nhà. Cụ NĐ_Hoa đã đề nghị với cơ sở thôn để hòa giải yêu cầu anh BĐ_Minh không được đổ đất, nhưng anh Manh vẫn cố tình lấn chiếm.
193/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 348
- 10
Theo đơn khởi kiện ngà 29/3/2004 nguyên đơn là cụ NĐ_Trần Tuyết Vy trình bày: Năm 1956, cụ NĐ_Vy và chồng là cụ Lâm Khoa Quan mua một căn nhà tranh vách đất tại khu phố AK (nay là nhà số 100 NH, tổ 9, phường AP, thị xã AK, tỉnh GL) của vợ chồng ông Đặng Ấm và bà Hồ Thị Đào với giá 2.700đ; thửa đất có nhà dài 30m, rộng 25m. Sau đó vợ chồng cụ NĐ_Vy cất thêm 2 căn nhà tranh, một căn nhà trước dùng để ở (khoảng 45m2), 01 căn nhà sau nối liền nhà trước dùng làm bếp (khoảng 40m2). Việc mua bán được lập thành văn bản, có Cảnh sát trưởng quận Tân An xác nhận ngày 08/12/1956.