165/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1443
- 37
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Năm 1996, bà NĐ_Hoa chuyển nhượng 600m2 đất cho anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn giá 10 chỉ vàng 24k; lúc này đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên chỉ làm giấy tay, ông NĐ_Ngân và bà NĐ_Hoa đứng tên trong sổ bộ đất, hai bên đã giao vàng và đất xong nhưng không có làm biên nhận, hai bên thỏa thuận chi phí làm thủ tục chuyển nhượng do anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn chịu, anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn đã sử dụng diện tích đất này từ đó đến nay. Khoảng tháng 9, 10/1995 gia đình ông NĐ_Ngân có cho ông LQ_Ngà, bà LQ_Linh mượn diện tích đất là 1.600m2 tọa lạc tại tổ 35, khóm 4, phường 6, thành phố CL để cố cho vợ chồng anh BĐ_Nguyễn Văn Linh, chị BĐ_Trần Thị Tuấn giá 25 chỉ vàng 24k và thỏa thuận khi nào có vàng sẽ chuộc lại đất. Việc thỏa thuận cầm cố không có làm giấy tờ.
160/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1364
- 44
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Năm 1973, cụ Thanh mua một mẫu đất tại khi Rạch Ruột Ngựa (nay thuộc phường 16 quận T) và sinh sống tại đó. Thời kỳ thành lập hợp tác xã, gia đình đã giao hết đất vào hợp tác xã. Cụ Năm đứng tên chủ hộ gia đình, là xã viên hợp tác xã phường 21 quận T (nay là phường 16 quận T - Hợp tác xã nông nghiệp Phủ Định) và được nhận đất do hợp tác xã giao có diện tích 6907m2 đất nông nghiệp. Sau khi hợp tác xã không còn, cụ Năm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 6907m2 nông nghiệp. Cụ Năm đã bán đi một phần đất nên chỉ còn lại khoảng 2300m2 thuộc thửa đất 7 và số 8 tờ bản đồ số 02. Diện tích đất nêu trên hiện nay do người con thứ năm là ông BĐ_Nguyễn Văn Hà quản lý, sử dụng. Ông BĐ_Hà đi nghĩa vụ quân sự từ năm 1981 đến 1984, khi xuất ngũ thì làm công nhân Xí nghiệp nước mắm Việt Hương Hải. Khi còn sống, cụ Năm đã khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Hà trả lại cho cụ quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do cụ Năm chết trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Quá trình sử dụng đất, ông BĐ_Hà đã xây dựng nhà trọ trên đất để kinh doanh, hưởng hoa lợi từ việc kinh doanh này.
157/2014/DS-GĐT: Tranh chấp lối đi Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1206
- 37
Năm 1985, ông NĐ_Thịnh nhận chuyển nhượng lại của bà Cát một phần đất tại thửa 337 tờ bản đồ 02 xã CĐ, huyện LT, tỉnh ĐN và cất nhà ở cho đến nay. Khi nhận chuyển nhượng, diện tích đất này có lối đi ra đường lộ xã ngang qua đất nhà vợ chồng ông Nguyễn Xuân Huấn (chết năm 2007), bà BĐ_Đào Thị Minh. Gia đình ông NĐ_Thịnh đã sử dụng lối đi này trong sinh hoạt hàng ngày. Năm 1996, ông NĐ_Thịnh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2008, bà BĐ_Minh rào đất bít lối đi nên ông NĐ_Thịnh phải đi tạm qua đất người khác.
155/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 706
- 15
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Đương do chị Nguyễn Thị Chon đại diện trình bày: Thửa đất số 547, tờ bản đồ số 27 có diện tích 2.432m2 tọa lạc tại xã MHB hiện anh BĐ_Nguyễn Văn Mẫn (con bà NĐ_Đương) đang quản lý và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân huyện ĐH cấp ngày 27/5/2005 là của vợ chồng bà NĐ_Nguyễn Thị Đương và ông Nguyễn Văn Hoanh khai khẩn và sử dụng từ trước giải phóng. Năm 1991, ông Hoanh chết, bà NĐ_Đương với con gái là Nguyễn Thị Chon tiếp tục sử dụng. Đến năm 2000, chị Chon có gia đình và theo chồng, lúc này ông BĐ_Mẫn có hỏi bà NĐ_Đương xin canh tác, bà NĐ_Đương đồng ý và sau đó ông BĐ_Mẫn tự đi đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
154/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1279
- 49
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nhưng sau khi nhận cọc và tiến hành các thủ tục ký kết hợp đồng thì cơ quan quản lý đô thị cho biết chỉ giới xây dựng đường HVT là 8m, vị trí hẻm dưới bên hông nhà là 3m. Vị trí này khi xây dựng phải vạt góc theo quy chuẩn để đảm bảo tầm nhìn là 3m x 3m, nên phía bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn cho rằng phần đất trên khi xây dựng sẽ bị mất diện tích phía trước và phía hông so với hiện trạng thực tế do nằm trong lộ giới và hẻm giới. Nhưng khi thỏa thuận giao kết và đặt cọc, phía ông BĐ_Sinh và bà BĐ_Linh không cung cấp thông tin này cho bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn biết, từ đó bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn cho là bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn bị nhầm lẫn nên yêu cầu tòa án hủy bỏ giao kết hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/4/2010 giữa bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn với bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh; đồng thời buộc bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh trả lại 200.000.000 đồng tiền đặt cọc cho bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn.