157/2014/DS-GĐT: Tranh chấp lối đi Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1206
- 37
Năm 1985, ông NĐ_Thịnh nhận chuyển nhượng lại của bà Cát một phần đất tại thửa 337 tờ bản đồ 02 xã CĐ, huyện LT, tỉnh ĐN và cất nhà ở cho đến nay. Khi nhận chuyển nhượng, diện tích đất này có lối đi ra đường lộ xã ngang qua đất nhà vợ chồng ông Nguyễn Xuân Huấn (chết năm 2007), bà BĐ_Đào Thị Minh. Gia đình ông NĐ_Thịnh đã sử dụng lối đi này trong sinh hoạt hàng ngày. Năm 1996, ông NĐ_Thịnh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2008, bà BĐ_Minh rào đất bít lối đi nên ông NĐ_Thịnh phải đi tạm qua đất người khác.
156/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 860
- 21
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn cụ NĐ_Bùi Thị Dương trình bày: Năm 1969, cụ NĐ_Dương mua một phần đất của cụ Võ Văn Mười là cha của ông BĐ_Võ Văn Tính gồm phần đất thổ cư diện tích 190m2 và phần đất ao có diện tích ngang khoảng 6m, dài 26m (khoảng 156m2) với giá 3000 đồng. Phần đất này tọa lạc tại ấp Phú Ninh, xã SP, huyện TB, tỉnh VL. Việc mua bán không làm giấy tờ chỉ nói miệng. Sau đó, cụ NĐ_Dương đã nhận đất quản lý, sử dụng cho đến nay. Cụ NĐ_Dương đã tiến hành kê khai đăng ký quyền sử dụng đất nhưng khi được cấp giấy chứng nhận thì chỉ được cấp giấy chứng nhận đối với phần đất thổ cư, còn phần đất ao chưa được cấp giấy chứng nhận.
155/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 706
- 15
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Đương do chị Nguyễn Thị Chon đại diện trình bày: Thửa đất số 547, tờ bản đồ số 27 có diện tích 2.432m2 tọa lạc tại xã MHB hiện anh BĐ_Nguyễn Văn Mẫn (con bà NĐ_Đương) đang quản lý và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân huyện ĐH cấp ngày 27/5/2005 là của vợ chồng bà NĐ_Nguyễn Thị Đương và ông Nguyễn Văn Hoanh khai khẩn và sử dụng từ trước giải phóng. Năm 1991, ông Hoanh chết, bà NĐ_Đương với con gái là Nguyễn Thị Chon tiếp tục sử dụng. Đến năm 2000, chị Chon có gia đình và theo chồng, lúc này ông BĐ_Mẫn có hỏi bà NĐ_Đương xin canh tác, bà NĐ_Đương đồng ý và sau đó ông BĐ_Mẫn tự đi đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
101/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 793
- 17
Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản
Do chồng của bà là cán bộ nên bà không tự đứng ra nhận cầm cố tài sản mà nhờ cháu rể của bà là anh LQ_Diệp Tú My đứng tên giùm bà hợp đồng cầm cố căn nhà của ông LQ_Trần Lương Thu và bà BĐ_Biện Thị Đương với giá cầm cố là 10 chỉ vàng 24k hạn 02 năm sẽ cho chuộc lại, sau đó bà cho vợ chồng ông LQ_Thu, bà BĐ_Đương thuê lại căn nhà này với giá 250.000 đồng/tháng. Vàng đưa cho vợ chồng ông LQ_Thu là của bà đưa cho anh LQ_My để anh LQ_My giao lại cho vợ chồng ông LQ_Thu, bà BĐ_Đương. Đến năm 2008 hết hạn hợp đồng, bà và anh LQ_My có qua nhà bà BĐ_Đương để làm lại hợp đồng nhưng vợ chồng bà BĐ_Đương muốn chuộc lại nhà nên không làm lại hợp đồng nữa. Sau đó bà BĐ_Đương không thanh toán tiền thuê nhà cho bà nữa. Đến ngày 29/5/2009, bà đến nhà ông LQ_Thu, bà BĐ_Đương yêu cầu trả tiền nhà thì bà BĐ_Đương trả thêm cho bà 10 tháng tiền nhà và viết tờ tường thuật nhận có thiếu của bà 10 chỉ vàng 24k. Nay bà yêu cầu vợ chồng ông LQ_Thu, bà BĐ_Đương trả cho bà 10 chỉ vàng 24k và 21 tháng tiền thuê nhà là 5.250.000 đồng.
46/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 723
- 32
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung
Theo Đơn khởi kiện ngày 19/6/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án - nguyên đơn anh NĐ_Nguyễn Hoàng Cao Linh trình bày: Căn nhà số 05 NH, ấp Thuận An, xã LT, thị xã GC (nay là số 0464) là tài sản thuộc sở hữu chung của cha mẹ anh là ông BĐ_Lan và bà BĐ_Dương. Cha mẹ anh đã ly hôn nhưng chưa chia tài sản chung. Đến tháng 4/2008 anh mới biết cha mẹ anh làm thủ tục bán nhà, đất cho ông LQ_Chân, bà LQ_Thanh. Nhà được xây dựng lại vào năm 2004 và anh có đóng góp vào việc xây dựng nhà gồm 86.000.000 đồng và tiền mua vật liệu xây dựng 14.000.000 đồng. Ngoài ra, vào năm 1999 anh có mua một phần đất diện tích 18m2 với số tiền 2.000.000 đồng của ông Trương Văn Mứt ở liền kề với đất của cha mẹ anh để cho ranh đất được ngay thẳng và cha mẹ anh đã sử dụng hết phần đất anh mua để cất lại nhà 0464 NH. Nay anh yêu cầu ông BĐ_Lan, bà BĐ_Dương trả lại cho anh 18m2 đất, trả bằng đất và trả lại phần tiền anh đóng góp xây nhà 100.000.000 đồng, nay trượt giá là 150.000.000 đồng.