cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1073/2009/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 1159
  • 17

Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu

04-05-2009
TAND cấp tỉnh

Chấp thuận lời đề nghị của BĐ_Công Ty Cổ Phần Lá Xuân, ngày 03/12/2004 và 18/02/2005, ông NĐ_Nguyễn Hoàng Sinh đã nộp tiền vào công ty để mua 1.700 cổ phần của công ty với giá 300.000 đồng/cổ phần, tổng cộng là 510.000.000 đồng. - Sau đó, do BĐ_Công Ty Cổ Phần Lá Xuân không chịu làm thủ tục công nhận ông là cổ đông của công ty đồng thời cũng do bất đồng về quan điểm hợp tác và làm việc, ông NĐ_Sinh đã yêu cầu công ty phải hoàn trả lại toàn bộ khoản tiền mà ông đã nộp cho công ty để mua cổ phần nói trên. BĐ_Công Ty Lá Xuân đã hoàn trả cho ông NĐ_Sinh 70.000.000 đồng, nhưng phần tiền còn lại 440.000.000 đồng thì không đồng ý trả lại mà chỉ đồng ý để cho ông NĐ_Sinh sang nhượng cổ phần.


06/2009/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa khác Phúc thẩm Kinh doanh thương mại

  • 1109
  • 33

Tranh chấp mua bán hàng hóa khác

12-01-2009
Tòa phúc thẩm TANDTC

Từ tháng 6/2007 đến tháng 11/2007 Valaspa Malaysia đã bán và giao cho BĐ_Công ty Hà Sang một số sản phẩm sơn và chất phủ bề mặt dùng cho các sản phẩm gỗ với tổng số tiền bán hàng là 383.933,23 USD. BĐ_Công ty Hà Sang đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và sau nhiều lần đã cam kết và hứa thanh toán số tiền nêu trên cho Valaspa Malaysia chậm nhất vào ngày 20/11/2007. Sau nhiều lần đòi nợ BĐ_Công ty Hà Sang mới thanh toán tính đến ngày 12/11/2007 là 100.000,00 USD. Số tiền còn lại chưa thanh toán là 283.933,23 USD.


11/2008/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán máy điều hòa nhiệt độ Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 1191
  • 15

Tranh chấp hợp đồng mua bán máy điều hòa không khí

29-09-2008
TAND cấp tỉnh

Theo nguyên đơn khởi kiện vào ngày 20/7/2005 với nội dung: Ngày 18/8/2004 giữa NĐ_Công ty TNHH T&D Electronics Việt Nam Hải Phòng (gọi tắt là NĐ_Công ty T&D ) đại diện bên A có ký hợp đồng số 01/T&D E/CAC/2004 - 08 mua bán máy điều hòa nhiệt độ nhãn hiệu T&D với đại diện bên B là BĐ_công ty TNHH Nhà hàng - Khách sạn Minh Quân (gọi tắt là BĐ_công ty Minh Quân). Số lượng 19 bộ, tổng trị giá hợp đồng là 1.118.250.000 đồng, chất lượng hàng mới 100%. Bên A sẽ tiến hành giao hàng cho bên B theo yêu cầu của bên B, thời gian giao là 03 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Thời gian thanh toán 03 đợt (đợt 1: 10% sau khi ký hợp đổng; đợt 2: 20% ngay sau khi hàng hóa được tập kết đầy đủ tại địa điểm bên B; đợt 3: 70% thanh toán trong vòng 45 ngày sau giao hàng).


60/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 711
  • 6

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung

25-02-2014

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/8/2011 và quá trình tố tụng nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Chi trình bày: Hai cụ Nguyễn Văn Bền và LQ_Trần Thị Linh có 05 người con (bà LQ_Nguyễn Thị Chân, LQ_Nguyễn Thị Mỹ Dân, LQ_Nguyễn Văn Tân, BĐ_Nguyễn Văn Minh, NĐ_Nguyễn Thị Chi). Trước khi hy sinh (năm 1973), cụ Bền có cho bà NĐ_Chi 01 lượng vàng. Năm 1977, bà NĐ_Chi góp 01 lượng vàng cho mẹ là cụ LQ_Linh nhận chuyển nhượng 01 lô đất, diện tích hơn 2.000m2 trên có một căn nhà cấp 4 diện tích 64m2 tại 49/31 PHT, phường 10, thành phố ĐL, tỉnh LĐ của cụ Đường với giá là 2.800đ (giá vàng khi đó 1.500đ/ lượng). Việc chuyển nhượng này do ông LQ_Tân (anh cả) đứng ra giao dịch thay cho mẹ. Sau khi chuyển nhượng, cả gia đình cùng sinh sống trên diện tích đất này, đến năm 1991 bà NĐ_Chi mới chuyển ra ngoài sinh sống vì mâu thuẫn với ông BĐ_Minh.


57A/2014/DS-GĐT: Truy nhận cha cho con Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 718
  • 8

Truy nhận cha cho con

24-02-2014

Nguyên đơn trình bày: Ông là con của ông Đinh Phục Ba và bà LQ_Lê Thị Thường, vì chiến tranh nên khai sinh gốc không còn, theo Nghị định 83 ông đã khai sinh lại. Năm 2010 phát sinh tranh chấp giữa ông và các cô của ông nên Sở Tư pháp có công văn 541 hướng dẫn truy nhận cha cho con tại Toà. Bà BĐ_Sân, bà BĐ_Ninh, bà BĐ_Đương và bà BĐ_Linh không thừa nhận ông là con của ông Ba và bà Thuyền nên ông đề nghị Toà án giải quyết truy nhận ông Ba và bà Thuyền là cha mẹ của ông. Ông cung cấp giấy xác nhận của ông Đỗ Văn Tép, ông Trần Văn Ngọc, ông Đinh Hữu Út, bà Phan Thị Trinh và bà Trần Thị Điển, ngoài ra ông không còn chứng cứ khác đế cung cấp và ông không yêu cầu giám định gien. Nay ông yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.