cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

20/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 2019
  • 75

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

06-08-2013
TAND cấp huyện

Vào ngày 14/5/2012 sau khi kết thúc thành công thời gian thử việc, thì phía BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã chấp nhận tuyển dụng ông NĐ_Khang vào làm việc chính thức (chấp nhận bằng lời nói) và đồng thời gửi cho ông NĐ_Khang một bản hợp đồng lao động, theo đó ông NĐ_Khang được chính thức tuyển dụng vào vị trí Giám đốc kinh doanh và chăm sóc khác hàng trong thời gian 12 tháng kể từ ngày 14/5/2012 với mức lương là 2.000 USD/tháng. Vào ngày 06/6/2012 ông NĐ_Khang đưa ra bản thảo cuối cùng của hợp đồng để các bên ký kết, nhưng vào ngày 12/6/2012 ông Suetsugu Naruhito – Giám đốc điều hành của BĐ_Công ty Tuấn An Việt Nam đã thông báo cho ông NĐ_Khang biết công ty sẽ chấm dứt việc tuyển dụng ông NĐ_Khang vào ngày 12/6/2012 vì tình hình tài chính khó khăn của công ty, đồng thời yêu cầu ông NĐ_Khang trả lại tài sản (như máy vi tính, thẻ taxi và chìa khóa văn phòng).


16/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 1529
  • 32

Tranh chấp bảo hiểm xã hội

08-05-2013
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 07/8/2012 và các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn do bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh đại diện trình bày: BĐ_Công ty TNHH trung tâm thương mại và căn hộ Phương Anh (gọi tắt là BĐ_Công ty căn hộ Phương Anh) liên tục nợ BHXH, BHYT kéo dài, tổng số tiền BHXH phát sinh nợ đọng đến tháng 4 năm 2013 là 375.585.259 đồng. NĐ_Bảo hiểm xã hội Thành phố HCM nhiều lần nhắc nhở, nhưng BĐ_Công ty căn hộ Phương Anh không khắc phục, không nộp tiền nợ bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm xã hội. Trong khi đó hàng tháng vẫn khấu trừ và chiếm dụng 9,5% BHXH, BHYT từ tiền lương của người lao động. Đây là việc vi phạm nghiêm trọng về quyền lợi hợp pháp của người lao động, gây khó khăn cho việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.


02/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động

  • 1041
  • 20

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

09-01-2013
TAND cấp huyện

Nguyên đơn trình bày: Ông và BĐ_Công ty Bonnataka haghtike International (BĐ_Công ty BHI) có ký hợp đồng lao động số 098/10-HĐLĐ ngày 02/8/2010, hợp đồng xác định thời hạn 01 năm (từ 02/8/2010 đến ngày 01/8/2011), với công việc là đồ họa viên, mức lương 17.500.000 đồng/tháng. Trong quá trình làm việc ông đã nhận được Quyết định nâng bậc và tăng lương vào ngày 01/1/2011 lên 22.000.000 đồng/tháng và ngày 20/7/2011 lên 25.000.000 đồng/tháng với công việc là Kiến trúc sư - Phòng thiết kế. Khi hết hạn hợp đồng (ngày 02/8/2011), ông được công ty thông báo sẽ ký tiếp một hợp đồng xác định thời hạn 01 năm nhưng đến ngày 08/8/2011 ông được yêu cầu ký Hợp đồng lao động thời vụ 08 tháng có giá trị từ ngày 02/8/2011 đến ngày 31/03/2012, phòng nhân sự giải thích rằng đến tháng 04/2012 có thể công ty sẽ ký tiếp hợp đồng lao động với ông. Mặc dù hợp đồng chi ký có 08 tháng nhưng mức lương và vị trí công việc của ông vẫn là kiến trúc sư - Phòng thiết kế cho Dự án tòa nhà Sài Gòn M & C.


03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1532
  • 51

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

26-10-2012
TAND cấp huyện

Năm 1989, bà được Ủy ban nhân dân (UBND) thị xã PL (nay là thành phố PL) giao cho một lô đất trồng cây công nghiệp tại lô số 36 ở Làng Ngol – phường TB với diện tích 1200m2 theo Quyết định số 167/QĐ-UB ngày 11/05/1989. Sau khi được giao đất, bà cùng với ông Trần Đức Quang (Nay là chồng bà) tiến hành trồng cây cà phê trên diện tích đất trên, đến năm 1990 bà bận công tác xa nên giao lại cho hai anh em trai bà là ông Đào Ngọc Hoàng và ông đào Ngọc Chuyền trông nôm, chăm sóc cà phê trên đất cho đến cuối năm 1995 thì không sử dụng đất nữa vì lý do bà bận công tác xa, còn hai anh em bà bận học nghề. Khoảng cuối năm 1996 bà phát hiện ông LQ_Nguyễn Ngọc Điện và bà LQ_Trần Thị Vẻ xây dựng nhà lấn sang phần đất của bà, bà đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND phường TB nhưng không được giải quyết. Đến năm 2007, bà tiếp tục có đơn khiếu nại và lúc này mới được UBND phường TB giải quyết. Do UBND phường TB giải quyết và BĐ_UBND thành phố PL có công trả lời không thỏa đáng nên bà có đơn khởi kiện ra Tòa.


02/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1128
  • 24

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình

04-10-2012
TAND cấp huyện

Ngày 17/08/2011,UBND xã AT ban hành Quyết định số 64/QĐ-UBND, với nội dung yêu cầu tôi phải tháo dỡ toàn bộ hàng rào lưới B40 và 01 số cây xanh trồng trên diện tích đất đường đi công cộng do Nhà nước quản lý đối với hộ của tôi, ở tại Hội Tín, AT. Sau đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã AT, huyện TA tổ chức thực hiện quyết định bằng việc cưỡng chế, theo biên bản cưỡng chế thu giữ tài sản ngày 22/08/2011. Việc Chủ tịch UBND xã AT ký quyết định và thực hiện quyết định nêu trên là không đúng thủ tục, trình tự theo quy định của pháp luật (vì không cho thời gian khiếu nại), gây thiệt hại tài sản và các quyền lợi của gia đình tôi. Trước đây tôi đã làm đơn yêu cầu UBND xã AT giải quyết nhưng không thực hiện.